Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác tin bài của nhanquyenvn.org, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "nhanquyenvn.org". Tìm kiếm ngay
62300

Đảm bảo quyền của người lao động đi làm việc ở nước ngoài Kỳ 2 Quyền, nghĩa vụ giữa doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài

Một số tổ chức nhân quyền ra thông cáo cho rằng có tình trạng lạm dụng người lao động Việt Nam tại Ả-rập Xê-út, kêu gọi chấm dứt tình trạng mua bán người ở hai nước, cho rằng chính quyền, doanh nghiệp Việt Nam lơ là, tắc trách trong công tác bảo đảm quyền lợi, chế độ đãi ngộ và bảo hiểm nghề nghiệp của người lao động khi lao động ở nước ngoài. Một số tổ chức phản động tiếp tục xuyên tạc về tình hình đời sống, các vụ việc nhạy cảm (bạo hành, nợ lương…) liên quan số lao động Việt Nam tại Ả-rập Xê-út để xuyên tạc, chỉ trích, vu cáo Việt Nam đàn áp nhân quyền, có liên hệ với các đường dây buôn người. Đây là những đánh giá thiếu khách quan, hòng lợi dụng danh nghĩa bảo vệ người Việt Nam lao động tại nước ngoài để lôi kéo người tham gia tổ chức, làm nóng vấn đề lên các diễn đàn quốc tế, khuếch trương thanh thế của “tổ chức”, làm xấu hình ảnh của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế, chống phá Đảng, Nhà nước ta. 

Một lớp học kỹ năng cho người lao động trước khi đi làm việc tại nước ngoài

             Quy định rõ trách nhiệm đối với doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp, tổ chức, cá nhân đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài

Tại kỳ hợp lần thứ 10, tháng 11 năm 2020, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật số 69/2020/QH14 sửa đổi Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (gọi tắt là Luật số 69). Luật đã đảm bảo quyền của người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Theo đó, Luật đã đảm bảo quyền chủ động và tự nguyện của người lao động đi làm việc ở nước ngoài và được thể hiện trong Điều 1: Phạm vi điều chỉnh; Điều 2: Đối tượng áp dụng; Điều 3: Giải thích từ ngữ về Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (khoản 1), Phân biệt đối xử (khoản 4) và Cưỡng bức lao động (khoản 5); Điều 5: Các hình thức người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Theo các quy định này bảo đảm quyền của người lao động được ra nước ngoài làm việc hợp pháp, tự do lựa chọn hình thức đi làm việc ở nước ngoài phù hợp và không bị ép buộc phải làm việc trái ý muốn của họ.

Quyền chủ động và tự nguyện của người lao động đi làm việc ở nước ngoài được thể hiện trong Điều 1. Phạm vi điều chỉnh; Điều 2. Đối tượng áp dụng; Điều 3. Giải thích từ ngữ về Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (khoản 1), Phân biệt đối xử (khoản 4) và Cưỡng bức lao động (khoản 5); Điều 5. Các hình thức người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Theo các quy định này bảo đảm quyền của người lao động được ra nước ngoài làm việc hợp pháp, tự do lựa chọn hình thức đi làm việc ở nước ngoài phù hợp và không bị ép buộc phải làm việc trái ý muốn của họ.

Đặt vấn đề coi trọng quyền và lợi ích của người lao động đi làm việc ở nước ngoài, Luật số 69 đã đưa quyền, nghĩa vụ của người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng lên Chương I Những quy định chung, tại Điều 6 quy định, theo đó người lao động có các quyền như: Được cung cấp đầy đủ các thông tin liên quan đến đi làm việc ở nước ngoài; Được bảo hộ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng trong thời gian làm việc ở nước ngoài; Khiếu nại, tố cáo hoặc khởi kiện về hành vi vi phạm pháp luật; thêm vào đó Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng khi bị người sử dụng lao động ngược đãi, cưỡng bức lao động hoặc có nguy cơ rõ ràng đe dọa trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe hoặc bị quấy rối tình dục trong thời gian làm việc ở nước ngoài. Việc quy định như vậy, cho phép người lao động chủ động tự quyết định việc đi làm việc ở nước ngoài, tự bảo vệ an toàn cho bản thân trước khi nhờ đến sự can thiệp của các tổ chức, cơ quan chức năng.

              Lấy người lao động làm trung tâm, nội dung các điều, khoản của Luật đã thể hiện quy định Nhà nước có các chính sách đối với người lao động; quy định quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến lĩnh vực người lao động Việt Nam đi làm việc ở  nước ngoài theo hợp đồng, theo đó quy định:

Cơ quan quản lý nhà nước theo chức năng có trách nhiệm đề xuất, xây dựng và thực hiện các chính sách hỗ trợ người lao động trong suốt quá trình từ trước khi xuất cảnh, trong thời gian làm việc ở nước ngoài cho đến khi về nước; hợp tác quốc tế trong việc hỗ trợ, bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động thông qua việc ký các hiệp định, thỏa thuận quốc tế hoặc tham gia điều ước quốc tế; đồng thời thực hiện nhiệm vụ quản lý, giám sát, thanh tra, kiểm tra  và xử lý các vi phạm trong lĩnh vực người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; Các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài thực hiện trách nhiệm bảo hộ công dân, hỗ trợ giải quyết các vấn đề phát sinh đối với người lao động.

Quy định đối với doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp, tổ chức, cá nhân đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài phải đáp ứng các điều kiện, cũng như phải được sự cho phép, chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với từng hợp đồng, thỏa thuận hoặc phương án đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, đồng thời  có trách nhiệm thực hiện đúng các quy định trong việc hỗ trợ và bảo vệ quyền lợi của người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Đặc biệt, đối với doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa  người lao động đi làm việc ở nước ngoài phải đáp ứng các điều kiện tài chính và nhân lực để thực hiện hoạt động này (vốn điều lệ không thấp hơn 5 tỷ đồng và phải thuộc sở hữu pháp nhân, thể nhân Việt Nam; người đại diện theo pháp luật và nhân viên nghiệp vụ phải có trình độ, tiểu chuẩn nhất định; cơ sở vật chất bảo đảm cho đào tạo giáo dục định hướng cho người lao động trước khi đi, cũng như trang thông tin điện tử của doanh nghiệp để công khai các thông tin của doanh nghiệp, các hợp đồng ký với nước ngoài ….).

Đồng thời Luật cũng quy định quyền, nghĩa vụ giữa doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài với người lao động từ quá trình chuẩn bị nguồn, tuyển chọn, đào tạo, làm thủ tục cho người lao động đến khi người lao động làm việc ở nước ngoài và sau khi về nước theo quy định của pháp luật và hợp đồng, thỏa thuận giữa người lao động với các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân này.

          Bảo đảm giảm gánh nặng về chi phí cho người lao động đi làm việc ở ngoài:

Với chủ trương nhằm giảm chi phí của người lao động đi làm việc ở nước ngoài, Luật số 69 đã thể hiện tính ưu việt và phù hợp với xu thế phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, cũng như vị trí của Việt Nam trong quan hệ quốc tế, đặc biệt vị thế của người lao động Việt Nam ở thị trường lao động quốc tế, như:

             Loại bỏ tiền môi giới: Người lao động không phải hoàn trả cho doanh nghiệp dịch vụ tiền môi giới do doanh nghiệp dịch vụ trả cho tổ chức, cá nhân trung gian. Khoản 8 Điều 7 quy định, nghiêm cấm hành vi thu tiền môi giới của người lao động. Theo quy định trước đây, người lao động đi làm việc ở nước ngoài thông qua doanh nghiệp dịch vụ phải hoàn trả một phần hoặc toàn bộ tiền môi giới mà doanh nghiệp dịch vụ trả cho bên môi giới.

Chỉ trả tiền dịch vụ còn thiếu: Doanh nghiệp dịch vụ thu tiền dịch vụ từ người lao động theo nguyên tắc thỏa thuận, không vượt quá mức trần quy định và chỉ thu số tiền còn thiếu so với mức tiền dịch vụ đã thỏa thuận. Như vậy, doanh nghiệp dịch vụ phải có trách nhiệm đàm phán, ký kết hợp đồng với bên nước ngoài tiếp nhận lao động trả tiền dịch vụ, trường hợp phía nước ngoài không trả hoặc trả không đủ theo quy định mức trần tiền dịch, doanh nghiệp mới được thu tiền dịch từ người lao động để đủ số tiền dịch vụ theo quy định. Thực tế hiện nay, một số thị trường và một số lĩnh vực có nhu cầu đối với lao động Việt Nam, bên nước ngoài tiếp nhận lao động sẵn sàng trả các chi phí cho việc tuyển chọn, đào tạo và tiền dịch vụ cho doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là đối với lao động có trình độ, kỹ năng nghề, ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu của bên tiếp nhận.

              Ngăn ngừa việc lạm thu tiền dịch vụ của người lao động,

Luật số 69 quy định nghiêm cấm hành vi thu tiền dịch vụ của  người lao động không đúng quy định của Luật này, đồng thời đã luật hóa quy định hiện hành về việc thu tiền dịch vụ của người lao động như: mức trần tiền dịch vụ; thời điểm được thu tiền dịch vụ là sau khi hợp đồng cung ứng lao động đã được cơ quan thẩm quyền chấp thuận và sau khi ký kết hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; việc hoàn trả tiền dịch vụ cho người lao động trong trường hợp người lao động chấm dứt hợp đồng trước thời hạn theo quy định.

            Bảo đảm người lao động đi làm việc ở nước ngoài hợp pháp: Quy định các hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực người lao động đi làm việc ở nước ngoài tại Điều 7, như: Lôi kéo, dụ dỗ, hứa hẹn, quảng cáo, cung cấp thông tin gian dối hoặc dùng thủ đoạn khác để lừa đảo người lao động; lợi dụng  hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài để tổ chức xuất cảnh trái phép, mua bán; Hỗ trợ hoặc làm thủ tục để người lao động đi làm việc ở nước  ngoài khi chưa được chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền; Cưỡng ép, dụ dỗ, lừa gạt người lao động ở nước ngoài trái pháp luật; Tự ý ở lại nước ngoài trái pháp luật.

Hỗ trợ người lao động trong các trường hợp phát sinh từ nguồn Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước: trong các trường hợp người lao động phải về nước trước thời hạn do tai nạn, ốm đau, bệnh tật; do người sử dụng lao động phá sản, giải thể; hoặc chiến tranh, thiên tai …; giải quyết tranh chấp phát sinh liên quan đến người lao động và hỗ trợ thân nhân người lao động trong trường hợp người lao động chết hoặc mất tích ở nước ngoài.

             Người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài phải được đào tạo giáo dục định hướng. Nội dung giáo dục định hướng bao gồm những kiến thức cơ bản về cưỡng bức lao động, phòng, chống buôn bán người, bình đẳng giới, lạm dụng tình dục, bạo lực giới và các kỹ năng phòng ngừa; về bảo hộ công dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng; và những vấn đề cần phòng ngừa trong thời gian làm việc ở nước ngoài; về định hướng tiếp cận cơ hội việc làm sau khi về nước; về các địa chỉ và đường dây nóng hỗ trợ người lao động khi gặp khó khăn trong thời gian làm việc ở nước ngoài. (Điều 65 Luật số 69)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *