Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác tin bài của nhanquyenvn.org, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "nhanquyenvn.org". Tìm kiếm ngay
13842

NATO xứng đáng với cái mác ‘tổ chức tội phạm’ theo nghĩa của bản án Nuremberg

Nhân viên làm việc tại Trụ sở NATO ở Brussels, Bỉ, ngày 24/3/2022. (Ảnh: Tân Hoa xã)

Tổ chức tội phạm là gì? Người bình thường nghĩ ngay đến các băng đảng ma túy địa phương và quốc tế, các đường dây buôn người, các hội khiêu dâm trẻ em, các trang web cờ bạc hoặc mafia. Có lẽ do hình ảnh được tạo ra một cách giả tạo, được hỗ trợ bởi các phương tiện truyền thông phương Tây, NATO không dễ bị coi là một “tổ chức tội phạm”.

NATO ban đầu không phải là một tổ chức tội phạm. Hiệp ước thành lập NATO ngày 4/4/1949 quy định tại điều 5:

“Các Bên đồng ý rằng một cuộc tấn công vũ trang chống lại một hoặc nhiều bên trong số họ ở Châu Âu hoặc Bắc Mỹ sẽ được coi là một cuộc tấn công chống lại tất cả các bên và do đó họ đồng ý rằng, nếu một cuộc tấn công vũ trang như vậy xảy ra, thì mỗi bên, khi thực hiện quyền quyền tự vệ cá nhân hoặc tập thể được Điều 51 của Hiến chương Liên Hợp Quốc công nhận, sẽ hỗ trợ Bên hoặc các Bên bị tấn công bằng cách thực hiện ngay lập tức, với tư cách cá nhân và phối hợp với các Bên khác, hành động mà Bên đó cho là cần thiết, bao gồm cả việc sử dụng lực lượng vũ trang, để khôi phục và duy trì an ninh của khu vực Bắc Đại Tây Dương.”

Ban đầu, NATO có một mục tiêu an ninh hợp pháp, tương thích với Chương VIII của Hiến chương Liên hợp quốc (Điều 52-54), cho phép các thỏa thuận khu vực, với điều kiện là những thỏa thuận này phù hợp với đối tượng và mục đích của Hiến chương Liên hợp quốc và chịu sự điều chỉnh của Liên hợp quốc. Hội đồng An ninh. Thật vậy, theo điều 103 của Hiến chương (“điều khoản về quyền tối cao”), trong trường hợp có xung đột giữa bất kỳ điều ước nào và Hiến chương, thì Hiến chương sẽ được ưu tiên.

Chừng nào Liên Xô còn đe dọa Tây Âu và có ý định mở rộng sang phương Tây, thì việc các nước phương Tây thực hiện các biện pháp an ninh tập thể là hợp pháp. Một hệ quả của hiệp ước NATO là Liên Xô đã tổ chức một liên minh cạnh tranh được gọi là Hiệp ước Warsaw (1955-1991) và mối đe dọa hủy diệt lẫn nhau thông qua vũ khí hạt nhân đã ngăn cản cả hai phe tấn công lẫn nhau. Điều này đã thay đổi vào năm 1989, khi nhà lãnh đạo Liên Xô yêu chuộng hòa bình Mikhail Gorbachev rút quân đội Liên Xô khỏi Trung và Đông Âu, đồng thời được Tổng thống Hoa Kỳ khi đó là George HW Bush và Ngoại trưởng James Baker hứa rằng NATO sẽ không di chuyển “một inch” về phía đông.

Trong một khoảnh khắc tỏa sáng ngắn ngủi, khả năng hòa bình thế giới dường như có thể đạt được với việc giải giáp lẫn nhau. Giấc mơ này đã bị tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton đập tan khi ông quyết định làm theo lời khuyên của những kẻ tân lợi và lộ trình đế quốc của nhà khoa học chính trị Zbigniew Brzezinski, người đã nghĩ ra ý tưởng về một thế giới đơn cực dưới quyền bá chủ, Hoa Kỳ. Quyết định mở rộng NATO về phía đông của Clinton, vi phạm các lời hứa ràng buộc, đã bị George F. Kennan chỉ trích mạnh mẽ là “lỗi định mệnh” trong bài viết của ông trên The New York Times ngày 5 tháng 2 năm 1997.

Sau năm 1997, NATO dần biến đổi từ một liên minh “phòng thủ” thành một gã khổng lồ địa chính trị để khuất phục phần còn lại của thế giới. Ngay từ những năm 1990, các nước NATO đã tham gia vào việc phá hủy sự toàn vẹn lãnh thổ của Nam Tư, và vào năm 1999, không có sự đồng ý của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, NATO đã ném bom Nam Tư, do đó vi phạm Điều 2(4) của Hiến chương Liên hợp quốc. Cuộc chiến tranh xâm lược của NATO năm 1999 là một cuộc diễn tập cho những gì sẽ xảy ra sau đó. Nó cũng kéo theo các tội ác chiến tranh nghiêm trọng, bao gồm bắn phá bừa bãi các trung tâm dân sự và sử dụng vũ khí bừa bãi, chẳng hạn như uranium cạn kiệt và bom chùm. Nam Tư chỉ là khúc dạo đầu cho một loạt các cuộc xâm lược chống lại Afghanistan, Iraq, Libya và Syria và những nơi khác, trong đó các tội ác chiến tranh và tội ác chống lại loài người đã gây ra mà hoàn toàn không bị trừng phạt.

Tại các phiên tòa ở Nuremberg năm 1945-1946, phái đoàn Mỹ đã dự tính xét xử 14 tổ chức là tội phạm, sau đó thu hẹp lại còn sáu tổ chức – Nội các Đế chế, Quân đoàn Lãnh đạo của Đảng Quốc xã, Gestapo, SA, SS và SD, và Bộ Tổng tham mưu và Bộ chỉ huy tối cao của quân đội Đức (Wehrmacht). Mục đích là để các tổ chức này bị tuyên bố là tội phạm hồi tố, để các thành viên của họ có thể bị xét xử nhanh hơn chỉ vì tư cách thành viên. Tất nhiên, khái niệm này vi phạm quy định của pháp luật, bởi vì nó kéo theo hình phạt tập thể và phá vỡ nguyên tắc suy đoán vô tội. Trong khi phán quyết ở Nuremberg cho rằng bản thân ba tổ chức là tội phạm, thì phán quyết đó không coi SA, Nội các Đế chế hoặc Wehrmacht là tội phạm. Tuy nhiên, bản án Nuremberg đã tạo ra một tiền lệ (và một tiền lệ tồi tệ), mà có thể được áp dụng cho các nước NATO và lực lượng NATO. Tuy nhiên, điều này là không cần thiết, vì các hành vi vi phạm Công ước The Hague và Geneva của các lực lượng NATO đã được ghi chép đầy đủ đến mức bất kỳ tòa án nào có thẩm quyền thích hợp đều có thể xét xử các thành viên của lực lượng NATO theo các Công ước hiện có mà không cần phải dựa vào khái niệm về một tổ chức tội phạm.

Điểm mấu chốt là trong khi các lực lượng NATO từ những năm 1990 đã phạm tội ác chiến tranh và tội ác chống lại loài người, thì điều quan trọng ngày nay là dư luận thế giới nhìn nhận NATO là mối đe dọa đối với hòa bình và an ninh của nhân loại. Sự khiêu khích nối tiếp của nó tạo thành mối nguy hiểm lớn nhất đối với sự tồn tại của chúng ta với tư cách là một loài. Trong khi NATO xứng đáng với nhãn hiệu “tổ chức tội phạm”, điều quan trọng không phải là tiến hành xét xử tội ác chiến tranh, mà là vô hiệu hóa mối đe dọa.

Những bình luận gay gắt trên của học giả phương Tây đã lột bỏ, phơi bày bản chất ngày càng biến tướng của NATO, khiến nó trở thành tổ chức “đồng hành” với Mỹ gieo rắc bom đạn khắp thế giới.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *