Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác tin bài của nhanquyenvn.org, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "nhanquyenvn.org". Tìm kiếm ngay
14616

Hiệp định về Biển cả  – Dấu mốc phát triển mới của luật pháp quốc tế

Từ ngày 19-20/6 tại New York (Mỹ), Hội nghị Liên chính phủ của Liên hợp quốc đã chính thức thông qua Hiệp định về Bảo tồn và Sử dụng bền vững Đa dạng Sinh học ở vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia- còn gọi là Hiệp định về Biển cả, đánh dấu sự ra đời của văn kiện thứ ba thực thi Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982.

Bảo vệ các vùng biển quốc tế

Theo Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng Phái đoàn Đại diện Thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốcbiển cả là nơi không thuộc về quyền tài phán của quốc gia nào, nơi có những loài sinh vật đặc biệt chỉ sống ở vùng sâu hoặc xa bờ, có giá trị to lớn về đa dạng sinh học và cả về kinh tế, cũng đang bị đe dọa nghiêm trọng.

Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng Phái đoàn Đại diện Thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc.

UNCLOS có quy định về tự do đánh cá và tự do nghiên cứu khoa học biển tại biển cả, song chưa có quy định điều chỉnh về phân chia nguồn lợi là nguồn gene thu thập từ biển cả, chưa có cơ chế điều phối, kiểm soát các hoạt động trên biển cả nhằm bảo vệ nguồn gene này khỏi bị suy giảm, cạn kiệt.

Hiệp định về Biển cả cụ thể hóa và phát triển UNCLOS trên khía cạnh này. Đây là hiệp định thứ ba thực thi UNCLOS (sau Hiệp định về đàn cá di cư và Hiệp định nhằm thực thi Phần XI của Công ước).

Chủ tịch Hội nghị Liên chính phủ Reena Leeđãmô tả việc xây dựng Hiệp định là “một công cuộc to lớn và có ý nghĩa sống còn”.Nếu tính cả các hoạt động trù bị cho Hội nghị Liên chính phủ và hoạt động vận động trong Đại hội đồng Liên hợp quốc, quá trình này kéo dài gần 20 năm.

Trêncơ sở nêu rõnguyên tắc “nguồn gene biển là di sản chung của nhân loại”,Hiệp định về Biển cả thiết lập khuôn khổ, phương thức chia sẻ lợi ích giúp cho các nước đang phát triển được chia sẻ công bằng lợi ích từ nguồn gene biển, bao gồm cả chuỗi thông tin số hóa nguồn gene biển (DSI); quy định về biện pháp phân vùng bảo tồn biển (ABMT), nhằm cân bằng giữa bảo tồn và sử dụng bền vững những khu vực cần được bảo vệ; thành lập và vận hành các cơ quan, thể chế để thực hiện văn kiện, giải quyết tranh chấp, cơ chế tài chính.

Mong muốn của Việt Nam

Đại sứ Đặng Hoàng Giang cho biết,Việt Nam mong muốn “trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an toàn… tham gia chủ động và có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực về biển và đại dương” (theo Chiến lược Phát triển Bền vững Kinh tế Biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045).

Việt Nam cũng có nhu cầu tận dụng các biện pháp xây dựng năng lực và chuyển giao công nghệ, cũng như nguồn lực tài chính của quỹ chia sẻ lợi ích từ nguồn gene biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia để “tiếp cận, tận dụng tối đa thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến,” “đào tạo và phát triển nguồn nhân lực biển, hình thành đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ biển có năng lực, trình độ cao,” từ đó “phát triển bền vững kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học,” như các mục tiêu mà Chiến lược Phát triển Bền vững Kinh tế Biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đề ra.

Toàn cảnh Hội nghị Liên hợp quốc thông qua Hiệp định về Biển cả, văn kiện thứ ba thực thi UNCLOS 1982.

Với chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước về biển cũng như về hội nhập quốc tế, với phương châm “chủ động, tích cực hội nhập sâu rộng,” “là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế,” một ngày không xa, Việt Nam sẽ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động trên vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia, trong khu vực Đông Nam Á, cũng như những khu vực khác trên thế giới.

Hiệp định về Biển cả gồm 17 chương, 76 điều, 2 phụ lục với nội dung chính xoay quanh một số vấn đề gồm:chia sẻ lợi ích nguồn gene biển; thiết lập vùng bảo tồn biển; đánh giá tác động môi trường; xây dựng năng lực và chuyển giao công nghệ và các vấn đề chung như: Cơ chế ra quyết định của Hội nghị các quốc gia thành viên; thành lập, vận hành các cơ quan; thể chế để thực hiện văn kiện; giải quyết tranh chấp; cơ chế tài chính.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *