Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác tin bài của nhanquyenvn.org, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "nhanquyenvn.org". Tìm kiếm ngay
19821

Nếu Trump làm theo Việt Nam trong phòng chống Covid, Hoa Kỳ sẽ có ít hơn 100 người chết vì đại dịch!

BBT xin trích đăng bài viết “If Trump Had Followed Vietnam’s Lead on COVID, US Would Have Fewer Than 100 Dead”của phóng viên CJ.Polychroniou phỏng vấn nhà kinh tế học tiến bộ nổi tiếng thế giới Robert Pollin, giáo sư kinh tế học xuất sắc và là đồng giám đốc của Viện Nghiên cứu Kinh tế Chính trị tại Đại học Massachusetts ở Amherst. Bài phỏng vấn đăng trên trang Truthout ngày 22/8/2020 được facebooker ông Ngô Mạnh Hùng dịch.

Nguồn: https://truthout.org/articles/if-trump-had-followed-vietnams-lead-on-covid-us-would-have-fewer-than-100-dead/.

Trả lời câu hỏi của phóng viên CJ Polychroniou về hậu quả với nước Mỹ do cuộc khủng hoảng coronavirus khiến hàng triệu người Mỹ thất nghiệp, thậm chí đang phải vật lộn để đáp ứng các nhu cầu cơ bản, qua đó đánh giá năng lực Chính phủ Donald Trump, ông Robert Pollin làm phép so sánh công tác chống dịch giữa Việt Nam và Hoa Kỳ và cho chúng ta bức tranh thảm hại về hậu quả yếu kém trong chống dịch gây thiệt hại như thế nào đối với nước Mỹ.

“Phản ứng của chính quyền Trump không có gì ngoài sự thảm hại. Hãy bắt đầu với những con số về những sinh mạng đã bị mất mát một cách không đáng ở Mỹ do sự kết hợp độc hại của Trump giữa sự thờ ơ, thù địch với khoa học với tư tưởng phân biệt chủng tộc. Tính đến ngày 17 tháng 8, chúng ta đang có khoảng 170.000 người chết vì COVID ở Mỹ, nhiều hơn gấp ba lần tổng số người Mỹ chết trong giao tranh ở Việt Nam. Chúng ta không có bằng chứng nào cho thấy tỷ lệ tử vong sẽ sớm giảm đáng kể. Mức tử vong do COVID của Hoa Kỳ lên tới 514 người trên 1 triệu người. Để so sánh, tỷ lệ tử vong của Canada thấp hơn một nửa so với Mỹ, vào khoảng 239 ca tử vong trên một triệu người, ngay cả khi Canada cũng là một quốc gia có thành tích tương đối kém. Tỷ lệ tử vong của Đức, 110 phần triệu, thấp hơn 80% so với Mỹ, nhưng Đức vẫn chỉ là một tay chơi tầm trung. Trong số những nươc có hiệu suất cao, tỷ lệ tử vong là 15 phần triệu ở Úc, 9 phần triệu ở Nhật Bản, 6 phần triệu ở Hàn Quốc và 3 phần triệu ở Trung Quốc, mặc dù virus này xuất hiện lần đầu tiên ở Trung Quốc. Nếu Hoa Kỳ quản lý đại dịch COVID ở mức độ, chẳng hạn như Úc, ít hơn 5.000 người đã chết cho đến ngày hôm nay so với gần 170.000.

Việt Nam là trường hợp phi thường nhất. Họ đã có tổng cộng 22 ca tử vong ở một quốc gia 95 triệu dân, tương đương với tỷ lệ tử vong là 0,25 phần triệu. Điều này diễn ra đối với một quốc gia có thu nhập bình quân đầu người chỉ bằng khoảng 3% so với ở Mỹ. Đây cũng là một quốc gia mà đế quốc Mỹ đã cố gắng tiêu diệt ở thế kỷ trước. Nếu Hoa Kỳ đã xử lý COVID như ở cấp độ của Việt Nam trong 8 tháng qua, thì ngày hôm nay tổng cộng có ít hơn 100 cư dân Hoa Kỳ phải chết vì đại dịch.

Về mặt quản lý sự sụp đổ kinh tế do đại dịch gây ra, chương trình kích thích khổng lồ trị giá 2 nghìn tỷ USD (10% GDP của Mỹ) mà Quốc hội đã thông qua và Trump đã ký vào tháng 3, Đạo luật CARES, hỗ trợ cho những người lao động thất nghiệp. Năm mươi sáu triệu người – tức 35% toàn bộ lực lượng lao động Hoa Kỳ – đã nộp đơn xin thất nghiệp từ tháng Ba đến tháng Tám. Phần lớn trong số họ nhận được 600 đô la hỗ trợ bổ sung.

Đạo luật CARES cũng đã cung cấp các gói cứu trợ khổng lồ cho các tập đoàn lớn và Phố Wall. Cộng lại mọi thứ, rõ ràng là ngay cả tại thời điểm thông qua Đạo luật CARES vẫn chưa thể đáp ứng được mức độ khủng hoảng sắp tới. Trong số các tính năng khác, nó chỉ cung cấp hỗ trợ tối thiểu cho các bệnh viện ở tuyến đầu chống lại đại dịch, và thậm chí ít hỗ trợ hơn cho chính quyền tiểu bang và địa phương. Nhà kinh tế học Timothy Bartik của Viện Upjohn ước tính rằng các chính quyền tiểu bang và địa phương đang xem xét khoản thiếu hụt ngân sách lên tới 1 nghìn tỷ đô la đến cuối năm 2021, bằng 20-25% toàn bộ ngân sách của họ. Nếu những khoảng trống ngân sách này không được lấp đầy trong thời gian ngắn, chúng ta sẽ bắt đầu chứng kiến việc sa thải hàng loạt y tá, giáo viên, người trông coi trường học và nhân viên cứu hỏa. Tất nhiên, những khoản cắt giảm ngân sách này sẽ chỉ lan rộng và làm sâu sắc thêm cuộc khủng hoảng kinh tế đang diễn ra.

Đa số đảng Dân chủ tại Hạ viện đã thông qua một biện pháp kích thích trị giá 3 nghìn tỷ đô la thứ hai và thậm chí còn lớn hơn, Đạo luật HEROES, vào tháng Năm. Nó bao gồm 1 nghìn tỷ đô la hỗ trợ cho chính quyền tiểu bang và địa phương. Nhưng Trump và phe Cộng hòa chiếm đa số tại Thượng viện đã chặn hành động này trong ba tháng qua. Trong khi đó, 16 triệu công nhân hiện đã mất 600 đô la mỗi tuần trong các khoản trợ cấp bổ sung và các chính quyền địa phương và tiểu bang đang đứng trước sự sụp đổ. Trump dường như muốn làm cho công nhân thất nghiệp và các chương trình khu vực công chết đói, có lẽ làm vậy để ông ta có thể xuất hiện và bảo lãnh họ ngay trước cuộc bầu cử vào tháng 11. Trump đã đưa ra một đề xuất “thỏa hiệp” với các đảng viên Dân chủ. Điều này sẽ bao gồm việc cắt giảm thuế trả lương sẽ làm mất vĩnh viễn An sinh Xã hội và Medicare, phá hủy Bưu điện Hoa Kỳ kịp thời để ngăn chặn mọi người bỏ phiếu chống lại anh ta thông qua việc bỏ phiếu qua thư.

Mỹ và châu Âu đã giải quyết tình trạng thất nghiệp do coronavirus gây ra về cơ bản theo những cách khác nhau, với cách tiếp cận của châu Âu là tìm cách duy trì một môi trường làm việc ổn định thông qua trợ cấp cho các công ty và bằng cách quốc hữu hóa hiệu quả biên chế, trong khi cách tiếp cận của Mỹ tìm cách thúc đẩy một thị trường lao động linh hoạt, và thực tế, khuyến khích người lao động, như Ivanka Trump đã nói, “tìm một cái gì đó mới”, bởi vì công việc cũ sẽ không quay trở lại. Kết quả cuối cùng là trong khi tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt ở Mỹ do đại dịch coronavirus, thì nhiều nước châu Âu lại chứng kiến tỷ lệ thất nghiệp tăng chưa đến 1%. Khoing lẽ đây vẫn chưa phải là lý do đủ mạnh cho Mỹ cần một nhà nước phúc lợi xã hội kiểu châu Âu hay sao?

Trở lại vào tháng 4, Dân biểu Pramila Jayapal của Washington, một nhà lãnh đạo cấp tiến của Hạ viện, đã giới thiệu Đạo luật Đảm bảo Tiền lương. Theo đề xuất này, chính phủ liên bang sẽ cung cấp các khoản trợ cấp cho tất cả người sử dụng lao động khu vực tư nhân và công cộng ở mọi quy mô để giúp họ duy trì hoạt động và giữ tất cả công nhân của họ trong biên chế, bất chấp sự sụt giảm doanh thu mà các thực thể này sẽ phải trải qua do đại dịch và cách ly. Thông qua chương trình này, tỷ lệ thất nghiệp sẽ không gia tăng đáng kể. Người lao động cũng sẽ không bị mất bảo hiểm chăm sóc sức khỏe từ người sử dụng lao động của họ. Kế hoạch này có thiết kế và phạm vi tương tự như các chính sách đã được áp dụng ở một số nền kinh tế châu Âu, bao gồm Đức, Anh, Đan Mạch và Pháp.

Bốn tháng sau, kết quả của việc Hoa Kỳ không thông qua đề xuất của Jayapal đã hiển hiện trước mắt chúng ta: theo số liệu gần đây nhất của tháng 6 và tháng 7 vừa qua, tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ là 10,2%, trong khi tỷ lệ ở các quốc gia có các chương trình kiểu Jayapal bao gồm Anh là 3,9%, Đức là 4,2%, Đan Mạch là 5,8% và Pháp với tỷ lệ cao nhất, ở mức 7,7 phần trăm. Trung bình đối với toàn Liên minh châu Âu là 6,2%. Đối với nền kinh tế Hoa Kỳ, sự khác biệt giữa tỷ lệ thất nghiệp 10,2 phần trăm so với 6,2 phần trăm có nghĩa tăng thêm 6,4 triệu người không có việc làm – tức là nhiều hơn toàn bộ dân số của Los Angeles và Chicago cộng lại. Ngoài ra, ít nhất 15 triệu người – bao gồm cả công nhân thất nghiệp và thành viên gia đình của họ – mất bảo hiểm y tế được chủ lao động chi trả khi tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ tăng lên.

Vì vậy, chắc chắn, về trung bình, Châu Âu đã xử lý cuộc khủng hoảng thất nghiệp tốt hơn nhiều so với Hoa Kỳ. Về mặt quản lý cuộc khủng hoảng COVID, Anh, Pháp, Ý, Tây Ban Nha và thậm chí Thụy Điển có tỷ lệ tử vong tương đương với ở Mỹ; Tỷ lệ thất nghiệp là 15,6% ở Tây Ban Nha dưới chính phủ theo đường lối Xã hội chủ nghĩa và 9,2% ở Thụy Điển theo Đảng Dân chủ Xã hội.

Trên thực tế, các nhà hoạch định chính sách châu Âu đã phá hoại các chính sách nhà nước phúc lợi của họ trong 40 năm nay, kể từ khi chủ nghĩa tân tự do lên ngôi, bắt đầu với cuộc bầu cử của Margaret Thatcher ở Anh vào năm 1979. Đây là một bài học có giá trị để chúng ta hình dung ra những gì sẽ là kết quả cuối cùng, như nhà kinh tế học Robert Heilbroner từng gọi là “Thụy Điển trong tưởng tượng”. Nhưng khi làm như vậy, chúng ta cần phải nhận ra rằng các chính sách bình đẳng ở Thụy Điển ngày nay chỉ mang một điểm tương đồng yếu với nhà nước phúc lợi mạnh mẽ đã vận hành 40 năm trước.

Theo nhiều chuyên gia y tế, coronavirus có thể không bao giờ biến mất ngay cả khi có vắc xin, và cuộc khủng hoảng coronavirus thực sự có thể trở thành một giai đoạn trầm cảm kéo dài. Trong trường hợp như vậy, làm thế nào chúng ta có thể chống thất nghiệp theo chu kỳ một cách tốt nhất và đảm bảo rằng mức sống của tầng lớp lao động và trung lưu ở Mỹ không có sự sụt giảm nghiêm trọng?

Tôi chắc chắn không có chuyên gia nào đánh giá khả năng mất bao lâu để đưa COVID-19 vào tầm kiểm soát ở Mỹ, hoặc đánh giá khả năng nó có thể vẫn là mối đe dọa sức khỏe cộng đồng vô thời hạn. Nhưng trong trường hợp chúng ta phải đối mặt với một loại vi rút mà chúng ta không thể kiểm soát đầy đủ, ngay cả thông qua tiêm chủng phổ cập, thì tôi sẽ nói rằng đã đến lúc bắt đầu học hỏi từ Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, và – trong một tình huống trớ trêu lịch sử – có thể đặc biệt là Việt Nam về cách tạo ra một hệ thống y tế công cộng để giảm thiểu sự lây lan của dịch bệnh. Bước một là thành lập Medicare cho tất cả, để mọi cư dân Hoa Kỳ được tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe chất lượng tốt, mà không phải sợ bị hủy hoại tài chính nếu họ mắc bệnh COVID hoặc bất cứ thứ gì khác.

Về mặt dài hạn, Thỏa thuận Xanh Mới có thể đóng vai trò là nền tảng để xây dựng nền kinh tế toàn dụng lao động. Về mặt kỹ thuật, không khó để tìm ra một khung chính sách có thể mang lại sự toàn dụng lao động. Rốt cuộc, các nước Tây Âu đã vận hành nền kinh tế gần như toàn dụng lao động từ khoảng cuối Thế chiến II đến giữa những năm 1970. Thật vậy, thành tựu chính của chủ nghĩa tân tự do ở châu Âu, bắt đầu với Margaret Thatcher, là phá vỡ nền tảng khung chính sách toàn dụng lao động đang chiếm ưu thế lúc bấy giờ. Để duy trì việc làm đầy đủ trong dài hạn, trước hết chúng ta cần các chính sách của chính phủ cam kết duy trì mức đầu tư công đủ để tạo ra nhiều việc làm ổn định ở mọi cấp độ xã hội. Rõ ràng là, vào thời điểm lịch sử này, chúng ta rất cần các khoản đầu tư công quy mô lớn cho ít nhất một thế hệ để xây dựng một nền kinh tế xanh. Như vậy, khung chính sách việc làm đầy đủ sẽ phù hợp hoàn toàn với vấn đề cứu hành tinh.

Nếu liên danh Biden-Harris giành được thắng lợi vào tháng 11, bạn có mong đợi rằng chúng ta sẽ thấy những thay đổi cơ bản trong phản ứng của chính phủ đối với bốn cuộc khủng hoảng về sức khỏe, biến đổi khí hậu, bất công chủng tộc và nền kinh tế bị tàn phá không?

Không có gì bí mật khi Joe Biden và Kamala Harris đều là đảng viên Đảng Dân chủ thân thiện với giới công ty và Phố Wall. Nếu chúng ta đợi họ ban hành những thay đổi cơ bản trong chính sách của chính phủ Hoa Kỳ, thì đó sẽ là một thời gian chờ đợi rất lâu. Nhưng cũng rõ ràng rằng Đảng Dân chủ có thể bị đẩy sang cánh tả – hay nói chính xác hơn – Đảng Dân chủ có thể được thúc đẩy để hỗ trợ, trong số những thứ khác, một hệ thống y tế công cộng có thể cứu sống và cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe chất lượng với chi phí thấp hơn nhiều so với mức chúng ta phải trả hiện nay và chương trình Thỏa thuận Xanh Mới có thể ngăn chặn thảm họa khí hậu đồng thời đóng vai trò là nền tảng của nền kinh tế toàn dụng lao động. Xóa bỏ phân biệt chủng tộc và phân biệt giới tính cũng sẽ phải là trọng tâm của bất kỳ chương trình nghị sự nào như vậy. Đến lượt nó, đạt được tiến bộ trong việc chống phân biệt chủng tộc và phân biệt giới tính.

Chúng ta biết rằng đảng Dân chủ có thể được thúc đẩy theo hướng này bằng cách so sánh cương lĩnh chính thức mà họ đang ban hành trong tuần này so với những gì họ đã thông qua vào năm 2016. Nền tảng hiện tại tiến bộ hơn nhiều so với phiên bản năm 2016 dưới thời Hillary Clinton. Đúng là các nền tảng như vậy gần như hoàn toàn bị bỏ qua một ngày sau khi chúng được phê chuẩn tại các đại hội của đảng, nếu không muốn nói là sớm hơn. Nhưng điều đó đưa chúng ta đến câu hỏi thực sự, đó là: Ai có khả năng thúc đẩy một cách hiệu quả Đảng Dân chủ tiếp nhận những đặc điểm thực sự tiến bộ của cương lĩnh đảng? Đó sẽ phải là một loạt các tổ chức và con người đã cam kết với các dự án như vậy trong một thời gian dài – bao gồm các nhóm hoạt động cơ sở cơ sở, chẳng hạn như Mạng lưới Lao động vì Sự bền vững, Việc làm và Công lý, Liên minh Nhân dân của Maine và nhiều hơn nữa, cũng như các nhóm khác, chẳng hạn như Đảng Dân chủ Tiến bộ của Mỹ, Cuộc cách mạng của chúng ta và Nhóm kín cấp tiến của Hạ viện.

Nếu chúng ta thành công trong việc xây dựng một dự án chính trị mang tính chuyển đổi vượt ra khỏi thời điểm lịch sử hiện tại với nhiều cuộc khủng hoảng nghiêm trọng và đa dạng, thì các nhóm cơ sở và cấp tiến mới là những người sẽ thực hiện nó – chắc chắn không phải Joe Biden hay Kamala Harris”

Bình luận về bài phỏng vấn, dân mạng Việt cho rằng, Robert Pollin là người ủng hộ đảng Dân chủ nên nội dung phỏng vấn chủ yếu tập trung vào công kích Trump mà không chỉ ra được nguyên nhân nội tại khiến nước Mỹ không thể tạo được cơ chế chống dịch và phát triển y tế cộng đồng. Một số dân mạng Việt  bình phẩm, nguyên nhân cốt lõi nằm ở giới tài phiệt vì “chúng nó muốn thế, không thấy tài sản của chúng nó cứ tăng lên mấy lần so với trước khi bị đại dịch ư” và “càng ngày nước Mỹ càng tự khoét sâu thêm mâu thuẫn. Không rõ liệu sẽ xảy ra cách mạng xã hội trong tương lai tại đó không. Hay những người dân với đầy đủ nhân quyền, dân chủ và chất lượng giáo dục cao lại tiếp tục chấp nhận cuộc sống nô lệ thời hiện đại cho tài phiệt”.

Thật may, đất nước VN do Đảng CSVN điều hành, tự bản thân nó luôn chủ trương vì lợi ích số đông và không để “lợi ích nhóm” lộng hành, không “nuôi dưỡng” và bảo vệ giới tài phiệt như bản chất nội tại của xã hội tư bản. Đây là một trong số nguyên nhân chính khiến y tế công cộng mới có đất sống ở Việt Nam.

Tuấn Thanh

 

Bài viết cùng chủ đề:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *