Đề xuất bổ sung khung pháp lý về cấp phép thủy điện nhỏ

Trong phần phát biểu thảo luận của mình, đại biểu Trần Thị Dung (Điện Biên) nêu rõ, việc phát triển các thủy điện vừa và nhỏ cho thấy, cơ chế, chính sách phát triển thủy điện chưa có rào cản tích hợp để loại ra những dự án kém hiệu quả và tiềm năng rủi ro cao có thể dẫn tới một số hậu quả của việc phát triển thủy điện như phá vỡ sinh kế và mất rừng. Việc phát triển các thủy điện vừa và nhỏ ảnh hưởng đến nguồn nước hạ lưu và sự vận chuyển của trầm tích thay đổi dòng chảy… Có ý kiến lo ngại rằng, nhà đầu tư đã lợi dụng dự án thủy điện nhỏ để phá rừng, lấy gỗ thu lợi ngoài kiểm soát của chính quyền, gây tác động tiêu cực đến môi trường. Ý kiến khác cho rằng, đây là dạng dự án thủy điện có công suất nhỏ và được nhiều doanh nghiệp đầu tư, vì suất đầu tư vừa phải thu hồi vốn nhanh và lợi nhuận lớn. Từ phân tích này, đại biểu Trần Thị Dung đề xuất Chính phủ sớm sửa đổi, bổ sung khung pháp lý về cấp phép thủy điện nhỏ; phải xem xét kỹ vấn đề thủy điện nhỏ để hạn chế việc phá rừng.

Tuyệt đối không bổ sung bất kỳ một dự án thủy điện nào sử dụng đến diện tích đất rừng tự nhiên
Đại biểu Trần Thị Dung (Điện Biên) phát biểu ý kiến.

Đồng quan điểm, đại biểu Đinh Thị Phương Lan (Quảng Ngãi) cho biết, trước tình hình thiên tai diễn biến phức tạp, đòi hỏi cần thiết tiếp tục điều chỉnh, thực hiện phù hợp chiến lược phát triển năng lượng quốc gia. Đại biểu Đinh Thị Phương Lan đề nghị phát triển đồng bộ, hợp lý, đa dạng các nguồn năng lượng; ưu tiên khai thác, quản lý hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, phát triển điện gió, điện mặt trời phù hợp với giá thành hợp lý. Đại biểu cũng đề nghị xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ, hợp tác phát triển điện gió ngoài khơi với chiến lược phù hợp với chiến lược biển Việt Nam; tiếp tục rà soát loại bỏ khỏi quy hoạch các thủy điện không phù hợp, hiệu quả…

Trước đó, trong phiên thảo luận hôm qua (3-11), một số đại biểu như Nguyễn Thị Xuân (Đắk Lắk), Mai Sỹ Diến (Thanh Hóa) đều bày tỏ lo lắng trước thực trạng thiên tai, biến đổi khí hậu, mưa lũ bất thường, khắc nghiệt xảy ra gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản của người dân, nhấn mạnh việc bảo đảm an toàn các công trình thủy điện, hồ đập thủy lợi trước tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu và mưa lũ kết hợp với biến đổi địa chất đặt ra thách thức ngày càng lớn.

Năng lực từ thủy điện là nguồn năng lượng tái tạo quan trọng 

Phát biểu giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh cho biết, hiện cả nước có 429 đập thủy điện và công trình thủy điện với các quy mô khác nhau; dung tích trữ nước khoảng 56 tỉ m3 và có công suất khoảng 20.000MW. “Đây là nguồn năng lượng quan trọng phục vụ cho nhu cầu về năng lượng của đất nước phát triển kinh tế – xã hội cũng như nhu cầu đời sống của nhân dân”, Bộ trưởng khẳng định.

Bộ trưởng Bộ Công Thương cho biết, chúng ta đang phụ thuộc nhiều vào năng lượng nhập khẩu do năng lượng sơ cấp đã gần hết. Trong khi đó, năng lực từ thủy điện là nguồn năng lượng tái tạo quan trọng, có mức độ ô nhiễm ít và độ phát thải gần như không có. Chính vì vậy, quản lý và khai thác được nguồn năng lượng tái tạo bảo đảm giảm thiểu tác động đến môi trường và phát huy tối đa hiệu quả là nhiệm vụ rất quan trọng của đất nước; qua đó phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt bổ sung chiến lược năng lượng trong tương lai. Trên thực tế, ngoài chức năng phát điện, các hồ chứa nước của các đập thủy điện còn có tác dụng tích nước và tùy thuộc vào công suất, có thể cắt giảm, điều tiết lũ, phục vụ nhu cầu phát triển địa phương. Tuy nhiên, Bộ trưởng Bộ Công Thương thừa nhận những tác động tiêu cực do thủy điện gây ra, trong đó tác động đến môi trường đất, nước, khí hậu cũng như đời sống dân sinh; trên thực tế đã có tác động đến dòng chảy, cấu trúc địa chất của đất khu vực, nguồn lợi thủy sản, đời sống của nhân dân.

Theo Bộ trưởng Bộ Công Thương, trong giai đoạn trước đây, nhiều dự án thủy điện chiếm đất rừng tự nhiên và ảnh hưởng đến rừng đầu nguồn, chức năng của rừng trong phòng, chống lũ, bão cũng như giảm thiểu tác động đến môi trường. Vì vậy, việc phát triển thủy điện nhận được sự quan tâm đặc biệt của Quốc hội, Chính phủ. Công tác về phát triển thủy điện nói chung và quản lý về an toàn đập, hồ thủy điện, sự vận hành của các công trình thủy điện đã được bảo đảm một mức mới và cụ thể. Hằng năm đều có các cuộc kiểm tra, giám sát và báo cáo đầy đủ theo tinh thần chỉ đạo, báo cáo Quốc hội về độ an toàn đập, hồ thủy điện; sự vận hành của hệ thống thủy điện và đặc biệt trong việc tham gia phòng, chống bão, lũ và thực hiện phòng, chống thiên tai tại địa phương…

“Thực hiện chỉ đạo của Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ về việc kiểm soát chặt chẽ phát triển thủy điện, không cho phép xâm dụng vào rừng tự nhiên, từ năm 2016, Bộ Công Thương phối hợp với các bộ, ngành tuyệt đối không bổ sung bất kỳ một dự án thủy điện nào nếu sử dụng đến diện tích đất rừng tự nhiên. Trên thực tế, từ năm 2016 đến nay, không có một dự án thủy điện nào sử dụng đến đất rừng tự nhiên”, Bộ trưởng Bộ Công Thương khẳng định.

“Cùng với đó, Thông tư số 43/2012/TT-BCT của Bộ Công Thương quy định chiếm dụng đất không vượt quá 10 ha/1 MW điện. Trên thực tế, chiếm dụng đất của các loại đất, trong đó có cả đất sản xuất nông nghiệp, đất rừng trồng, đất rừng nghèo, rừng sản xuất chỉ khoảng 1,9 ha/MW. Điều đó chứng tỏ chúng ta đã thực thi chính sách một cách rất chặt chẽ và nghiêm túc, theo đúng tinh thần chỉ đạo của Quốc hội”, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh nói.

Tiếp tục siết chặt quản lý trong phát triển thủy điện, hạn chế những tác động tiêu cực

Liên quan đến việc đánh giá hiệu quả của các dự án điện, nhất là thủy điện nhỏ và vừa, Bộ Công Thương đã phối hợp với các bộ, ngành, đưa 472 dự án ra khỏi quy hoạch thủy điện; đồng thời đưa ra khỏi quy hoạch 8 dự án thủy điện bậc thang các lưu vực sông. Bên cạnh đó, 213 điểm tiềm năng cho phát triển thủy điện cũng được đưa ra khỏi quy hoạch thủy điện theo yêu cầu của Quốc hội, bảo đảm yêu cầu mới cho phát triển.

Liên quan đến vận hành của các đập thủy điện và an toàn hồ, đập thủy điện, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho biết, hiện có hàng loạt các công cụ pháp lý từ Luật Xây dựng, Luật Bảo vệ tài nguyên nước, Luật Môi trường, Luật Xây dựng, Luật Điện lực và Luật Phòng, chống thiên tai, bão lũ… để điều chỉnh các hoạt động thủy điện để phòng, chống thiên tai cũng như bảo vệ an toàn đập, hồ thủy điện. Cụ thể, Nghị định 114 Chính phủ mới thông qua, các bộ, ngành đều ban hành thông tư hướng dẫn để bảo đảm an toàn của đập, hồ thủy điện, hồ thủy lợi; đồng thời, đã có phân cấp và xác định rõ trách nhiệm để đảm bảo quy trình. Đồng thời, đối với việc vận hành các đập, hồ thủy điện, hiện có hàng loạt các văn bản pháp quy hướng dẫn các phương án phòng, chống lụt, bão nhằm giảm thiểu những tác động tiêu cực đến đời sống của nhân dân, hoạt động kinh tế – xã hội địa phương. Ví dụ, Thông tư 47 của Bộ Tài nguyên và Môi trường; xây dựng bản đồ ngập lụt của các vùng hạ du của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn…

Liên quan đến ý kiến của các đại biểu để đánh giá lại hiệu quả và nguy cơ đặt ra cho việc xả lũ, gây thiệt hại cho nhân dân cũng như các yếu tố khác tác động đến môi trường, Bộ trưởng Bộ Công Thương cho rằng, các công cụ, cơ sở pháp lý hiện nay tương đối đầy đủ nhưng không tránh khỏi tình trạng một số địa phương thực thi không nghiêm. Với những việc này, các cơ quan chức năng xử lý kiên quyết, thu hồi giấy phép hoạt động, xử phạt, khắc phục; sau đó mới tiếp tục cho phép tham gia thị trường điện.

Trả lời thắc mắc của các đại biểu về ảnh hưởng của thủy điện đến tình hình lũ bão, ngập lụt cũng như những nguy cơ sạt lở đất, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho biết, qua khảo sát thực tế cũng như ghi nhận ý kiến của các chuyên gia, báo cáo của địa phương, việc sạt lở đất gây ra những tổn hại nghiêm trọng về người và tài sản vừa qua tại Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam…, gắn chặt trực tiếp với yếu tố dị thường, cực đoan của thời tiết. Theo báo cáo của cơ quan chuyên môn và chức năng, lượng mưa tại các địa phương này lên đến hàng nghìn mét khối/giây. Đây là những nguy cơ rất lớn và tạo ra tác động đến cấu tạo địa chất cũng như điều kiện đất đai và thổ nhưỡng địa phương và gây ra sụt lở rất nghiêm trọng.

“Vấn đề mất rừng đầu nguồn, thảm thực vật, mất độ kết dính của đất… do tác động của con người thông qua các dự án thủy điện cũng như các dự án khác là vấn đề không thể phủ nhận trong một mức độ chừng mực nhất định”, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh thừa nhận.

Trước những biến đổi khí hậu và yếu tố cực đoan của thời tiết, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh nêu rõ, để đối phó, ứng phó với thiên tai, bão, lũ là “một câu chuyện mới”, đặt ra yêu cầu với công tác nghiên cứu khoa học để đưa ra cảnh báo một cách cụ thể hơn nữa. Trong thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ làm việc với các địa phương, bộ, ngành để nghiên cứu cụ thể, đánh giá về những mặt còn hạn chế và những mặt tích cực; từ đó tham mưu chính sách với Chính phủ để tiếp tục siết chặt quản lý trong phát triển thủy điện, hạn chế những tác động tiêu cực; đồng thời tiếp tục khai thác tốt nguồn tài nguyên của đất nước.

Nhân quyền Việt Nam