Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác tin bài của nhanquyenvn.org, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "nhanquyenvn.org". Tìm kiếm ngay
117475

Nhận thức đúng về “Tự do ngôn luận và tự do ngôn luận trên mạng xã hội”

Khi Việt Nam thông qua Luật An ninh mạng, nhất là khi Nghị định 15/2020 của Chính phủ về “xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử” cùng với việc công an, chính quyền gia tăng xử phạt hành vi đăng tin giảm tin sai sự thật liên quan dịch bệnh và công tác phòng chống dịch bệnh Covid-19 thì dư luận bày tỏ lo lắng rằng, chính quyền “lạm dụng” luật hạn chế quyền tự do ngôn luận của người dân trên không gian mạng. Nhiều tổ chức nhân quyền nước ngoài, cá nhân, tổ chức chống chính quyền mượn gia tăng công kích chính quyền là “độc tài”, “vi phạm quyền tự do dân chủ”, “vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do Internet”…Ban Biên tập xin gởi đến bạn đọc bài phân tích làm rõ nội hàm của “tự do ngôn luận” và “tự do ngôn trên mạng” của tác giả Sắc Việt.

Gần đây, nhiều người hay đề cập đến thuật ngữ “tự do ngôn luận trên mạng”. Tất nhiên, để có thể nói về điều đó đòi hỏi hai điều kiện cơ bản: Một là, xuất phát từ quyền tự nhiên của con người được tôn trọng, bảo vệ và thực thi trên thực tế và, hai là, kể từ khi Internet (nhất là mạng xã hội) trở nên phổ biến.

Tự do và tự do ngôn luận – đó là giá trị và là quyền con người. Đề cập đến điều này, không phải tới tận xã hội cận hiện đại mới có, mà từ thời cổ đại cả ở phương Tây và phương Đông đều nêu lên rồi. Chẳng hạn, Solon, vị chính khách thời cổ đại Hy Lạp cho rằng, muốn có tự do và công bằng thì chúng ta phải đặt luật pháp ngang hàng với sức mạnh (chính trị). Tới thế kỷ XVIII, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp đã chính thức khẳng định: “tự do là quyền của con người được làm tất cả những gì mà không phương hại đến quyền của người khác”.

Ở Trung Quốc cổ đại, Tử Sản, khi còn làm quan nước Trịnh (thời Xuân Thu) đã đặt ra quy định cho phép mọi người dân được phê bình kẻ chấp chính, hay Chiêu Công Hổ – một quan đại thần nhà Tây Chu đã ví việc tạo điều kiện cho người dân có thể nêu ý kiến về mọi việc trong đời sống xã hội chẳng khác gì khơi thông dòng nước cho con sông chảy ra biển.

Đối với Việt Nam, vào năm 1919, quyền tự do ngôn luận lần đầu tiên được nêu lên khi người thanh niên Nguyễn Tất Thành chính thức sử dụng tên Nguyễn Ái Quốc để thay mặt cho những người Việt Nam yêu nước ký vào Bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị các nước Đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất được tổ chức tại Véc-xây (cách thủ đô Paris của nước Pháp 14 km) mà trong đó, quyền tự do ngôn luận được đặt ở vị trí thứ 3 trong 8 điều của bản Yêu sách. Kể từ đó, nhân dân Việt Nam đã trải qua hơn 25 năm đấu tranh đầy cam go, gian khổ để hiện thực hóa thành công cuộc cách mạng vô sản, giành lại nền độc lập và tự do cho dân tộc Việt Nam vào năm 1945. Đặc biệt, năm 1946, quyền tự do ngôn luận được trịnh trọng ghi nhận và bảo đảm thực hiện tại điều 10 Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Cho tới hiện nay, quyền tự do ngôn luận tiếp tục được khẳng định và bảo đảm thực hiện tại điều 25 Hiến pháp 2013.

Khái lược một số thông tin lịch sử để thấy rằng, nhân loại, trong đó có nhân dân Việt Nam, khi thức tỉnh và đấu tranh cho những quyền cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, đã phải trải qua những cuộc đấu tranh khốc liệt, thậm chí hy sinh xương máu của bao thế hệ. Vì lẽ đó, quyền tự do ngôn luận nhất quyết không phải là thứ mà những kẻ nào đó đem tới đất nước này để rao giảng, dạy dỗ hay xuyên tạc, bịa đặt về việc thực hiện nó trong cuộc sống. Nó cũng không phải là một quyền mà một bộ phận với nhận thức nông cạn, nửa vời, thô thiển có thể sử dụng để dễ dãi lên tiếng phê phán, chỉ trích, kích động, nói xấu vô căn cứ đối với các cá nhân, tổ chức. Thậm chí, trong bối cảnh hiện nay, một bộ phận xã hội tự cho mình cái quyền tự do ngôn luận lại “tung tăng buông lời trên mạng” một cách vô nguyên tắc.

Hiến pháp năm 1946 – bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã ghi nhận và bảo đảm thực hiện quyền tự do ngôn luận.

Vậy thì, muốn thực hiện tự do ngôn luận, trong đó cụ thể ở đây là tự do ngôn luận trên mạng, đòi hỏi mỗi cá nhân công dân phải tuân thủ và đáp ứng một số yêu cầu sau:

Một là, phải nắm vững, hiểu rõ những quy định của pháp luật có liên quan. Nhà triết học cổ điển Đức G.W.F. Hegel từng có luận điểm nổi tiếng: “Tự do là nhận thức được cái tất yếu”. C.Mác tán thành quan điểm này và còn làm rõ thêm: “Luật pháp không phải là những biện pháp đàn áp chống lại tự do… Ngược lại, luật pháp là những tiêu chuẩn khẳng định rõ ràng, phổ biến, trong đó tự do có một sự tồn tại vô ngã, có tính chất lý luận, không phụ thuộc vào sự tùy tiện của cá nhân riêng lẻ. Bộ luật là kinh thánh của tự do của nhân dân”[1]. Công dân Việt Nam phải hiểu biết đầy đủ, chính xác pháp luật, biết được quyền và nghĩa vụ của mình khi thực hiện quyền tự do ngôn luận. Chỉ khi thực hiện quyền tự do ngôn luận trong khuôn khổ pháp luật sẽ mang đến cho họ quyền tự do, không xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người khác.

Một đối tượng lợi dụng tự do ngôn luận, vi phạm nghiêm trọng pháp luật Việt Nam và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Ảnh: Internet.

Hai là, tự do ngôn luận, nhất là tự do ngôn luận trên mạng là tự tương tác của cá nhân có thể diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi, ít chịu sự giám sát, phê duyệt mang tính tổ chức, chính vì vậy đòi hỏi mỗi cá nhân công dân phải tự chịu trách nhiệm đối với mỗi lời nói, câu viết của mình trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên mạng xã hội, không phải thích nói và viết một cách bừa bãi, cảm tính nhất thời. Thực hiện quyền tự do ngôn luận trên mạng phải chính đáng, có tính mục đích tiến bộ rõ ràng, mang tính xây dựng, mang đến điều tốt đẹp, tích cực cho bản thân, cộng đồng, xã hội và quốc gia.

Ba là, tự do ngôn luận trên mạng là được bày tỏ quan điểm, chính kiến trên các báo mạng, diễn đàn, mạng xã hội, v.v.. Cho nên, cá nhân công dân bên cạnh việc tuân thủ những quy định của pháp luật chung, còn phải tuân thủ Luật Báo chí, đưa tin lên mạng phải trung thực, đúng sự thật, không được bóp méo, cắt gọt gây hiểu lầm hoặc khi đánh giá, phê bình phải có căn cứ rõ ràng.

Bốn là, thực hiện quyền tự do trên mạng phải phù hợp với văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, lời nói hay câu viết cần phải phù hợp với thuần phong mỹ tục của người Việt. Khi bình phẩm, nhận xét phải có lời lẽ ôn hòa, văn minh, lịch sự, không được sử dụng ngôn từ cực đoan, gay gắt hay lai căng mang tính lăng mạ, sỉ nhục, kỳ thị người khác.

Thực hiện quyền tự do ngôn luận nói chung và tự do ngôn luận trên mạng nói riêng là điều hoàn toàn chính đáng và được bảo đảm thực hiện trong xã hội. Mỗi cá nhân công dân cần nhận rõ quy định pháp luật liên quan, nhận rõ tư duy và hành vi xử sự của bản thân, góp phần xây dựng một xã hội Việt Nam tiến bộ, văn minh và phát triển.

===

Những nội dung phân tích nêu trên hoàn tòn phù hợp với Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị mà Việt Nam tham gia ký kết, trong đó tại Điều 19 Công ước này ghi rõ:

Điều 19.

1. Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp.

2. Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn của họ.

3. Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật và là cần thiết để:

a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác,

b) Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của xã hội.

Còn nhớ, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, kẻ cầm đầu nhiều hội nhóm mang danh “xã hội dân sự” chống Nhà nước khi ra tòa đã viện dẫn Điều 19 Công ước này để biện hộ rằng chị ta có quyền tự do ngôn luận đã được quy định trong luật pháp quốc tế và Việt Nam tham gia ký kết, bla. bla…Ngay lập tức, chủ tọa phiên tọa đã đọc nguyên điều 19 này và nhấn mạnh chị ta phải đọc hết, hiểu hết nội dung khoản 3 của điều này, đừng cắt cúp, xuyên tạc điều luật cũng như trách nhiêm cá nhân khi thực hiện quyền tự do ngôn luận. Vậy là blogger nổi danh “nhà hoạt động xã hội dân sự” mà báo đài Phương tây ca ngợi cứng họng.

Hiếu Ngọc

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *