Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác tin bài của nhanquyenvn.org, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "nhanquyenvn.org". Tìm kiếm ngay
23871

Bảo đảm quyền con người thích ứng trong tình hình mới

Chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam là bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, được thể hiện xuyên suốt trong Hiến pháp, pháp luật và các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Trên cơ sở chính sách nhất quán đó, Việt Nam đã nghiêm túc triển khai các nghĩa vụ và cam kết quốc tế trong lĩnh vực quyền con người. Cũng như nhiều nước khác trên thế giới ,trong năm 2021, dịch Covid-19 đã ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt của đời sống xã hội Việt Nam, tác động nhiều chiều đến khả năng thụ hưởng quyền con người và tác động mạnh tới các nỗ lực của Chính phủ trong việc bảo đảm quyền của người dân, tuy nhiên Việt Nam đã đạt được những thành tựu nổi bật trong bảo đảm quyền con người. Đó là minh chứng sinh động khẳng định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam bảo đảm quyền con người trong  đồng thời khẳng  định vai trò, vị thế của Việt Nam là một thành viên tích cực, trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.

Bảo đảm quyền con người trong tình hình mới

Ưu tiên hàng đầu là bảo vệ quyền của người dân

Tính đến ngày 13/10/2021, Việt Nam có tổng cộng 846.230 ca nhiiễm với 786.095 ca đã được chữa khỏi (đạt khoảng 93% tỷ lệ chữa trị thành công). Trong những tháng đầu năm 2021, nhất là từ khi bùng phát đợt dịch lần thứ 4, dịch bệnh lan rộng ở nhiều địa phương trên cả nước, tạo áp lực lớn đến kinh tế-xã hội của Việt Nam. Tỷ lệ thất nghiệp đã lên mức 2,52% (tháng 7/2021)[1]. Khu vực dịch vụ, nhất là các ngành ngân hàng, du lịch, vận tải, khách sạn, nhà hàng bị ảnh hưởng nặng nề; hơn 70.000 doanh nghiệp đã phải rút khỏi thị trường chỉ riêng trong những tháng đầu năm 2021[2].Đại dịch đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc thụ hưởng quyền của người dân, nhất là sinh hoạt, đi lại, học tập do phải giãn cách xã hội ở nhiều nơi để phòng chống dịch, song các quyền cơ bản của người dân vẫn được bảo đảm, trong đó có quyền tiếp cận các nhu yếu phẩm cần thiết như lương thực, đồ dùng thiết yếu,  quyền chăm sóc y tế, giáo dục trực tuyến.

Bên cạnh những khó khăn, áp lực do tình hình dịch bệnh, những năm gần đây Việt Nam còn phải đối mặt với tác động gay gắt của biến đổi khí hậu. Suốt 30 năm qua, trung bình một năm thiên tai gây thiệt hại về kinh tế khoảng 2-2,5% GDP của Việt Nam. Năm 2020 là năm mà thiên tai diễn biến phức tạp, khốc liệt, dị thường ở các vùng miền cả nước; xảy ra trên 458 trận thiên tai làm 342 người chết, mất tích, ước tính thiệt hại về kinh tế hơn 33.500 tỷ đồng. Biến đổi khí hậu cũng tiếp tục tạo ra các tác động kinh tế xã hội sâu rộng đối với Việt Nam, không những ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp mà còn làm thay đổi các cấu trúc cung cầu hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế. Các hiện tượng thời tiết cực đoan như hạn hán, lũ lụt, xâm nhập mặn thường xuyên xảy ra do tác động của biến đổi khí hậu, đặc biệt tại đồng bằng sông Cửu Long – vựa lúa của cả nước, khiến hàng chục ngàn héc-ta lúa bị mất trắng, ảnh hưởng đến an ninh lương thực bền vững của đất nước, tác động sâu rộng đến sinh kế, quyền lợi của người dân.

Việt Nam xác định công tác phòng, chống dịch là nhiệm vụ trọng tâm, đặt ưu tiên hàng đầu là bảo vệ sức khỏe người dân, hạn chế đến mức thấp nhất các ca mắc, ca chuyển bệnh nặng, tử vong do Covid-19; khôi phục, phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm an sinh, trật tự an toàn xã hội; chuyển hướng chiến lược phòng, chống dịch sang “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19”, thực hiện mục tiêu kép, đưa cả nước chuyển sang trạng thái bình thường mới sớm nhất có thể. Với những nỗ lực của cả hệ thống chính trị và sự đồng lòng, chung tay của người dân, dù còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, Việt Nam đã đạt những kết quả, thành tựu tích cực với mức tăng trưởng kinh tế đạt 2,91% trong năm 2020[3] và dự kiến khoảng 2,5-3% năm 2021[4]. Năm 2020, Việt Nam đã vượt lên trở thành nền kinh tế có quy mô lớn thứ 4 trong ASEAN, đứng thứ 37 thế giới. Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới (World Bank), các yếu tố căn bản của nền kinh tế Việt Nam vẫn vững chắc và nền kinh tế có thể quay lại với tốc độ tăng trưởng GDP trước đại dịch ở mức từ 6,5 đến 7% từ năm 2022 trở đi[5]. Việt Nam cũng có cơ hội tận dụng đà phục hồi sau đợt dịch Covid-19 và từ lợi thế triển khai tái cơ cấu nền kinh tế để tận dụng tối đa hiệu quả của 14 Hiệp định Thương mại tự do (FTA) đang triển khai với các đối tác, trong đó có Hiệp định định thương mại tự do với EU (EVFTA), Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Những thành tựu toàn diện trong phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế đã góp phần tạo nguồn lực cho việc bảo đảm thụ hưởng các quyền con người của người dân, thúc đẩy nâng cao chất lượng tăng trưởng với những cam kết về lao động và phát triển bền vững. Việt Nam cũng đã ban hành Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 để tranh thủ những thành quả của các mạng công nghiệp 4.0, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số, từ đó chuyển đến mô hình phát triển một cách hiệu quả, bền vững, giúp người dân thực hiện tốt hơn các quyền y tế, giáo dục, văn hóa, xã hội, kinh tế và quyền tham gia xây dựng pháp luật, nhà nước pháp quyền.

Thích ứng trong tình hình mới

Việt Nam đã tiếp tục thực hiện mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, hạn chế tái nghèo và phát sinh nghèo; hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo vượt lên mức sống tối thiểu, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia, nâng cao chất lượng cuộc sống. Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 đã có những kết quả tích cực như tỷ lệ hộ nghèo cả nước còn khoảng 2,75%, bình quân trong 5 năm giai đoạn giảm khoảng 1,43%/năm; tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo còn khoảng 24%, bình quân trong 5 năm giảm 5,65%; tuy nhiên do ảnh hưởng trực tiếp nặng nề của đại dịch, dự kiến số hộ nghèo tại Việt Nam sẽ tăng. Quốc hội Việt Nam đã thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và an sinh xã hội bền vững giai đoạn 2021-2025, Đề án Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển Kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030.

Nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, các giải pháp đồng bộ với nội dung thiết thực nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ vượt qua khó khăn đã được ban hành để không chỉ hỗ trợ doanh nghiệp, mà còn cả người lao động, cũng như đời sống và sự phát triển kinh tế-xã hội ở các địa phương và cả quốc gia như:  Cắt giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp chủ yếu thuộc quy mô vừa và nhỏ; kéo dài thời gian miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp từ 1/1/2021 tới năm 2025 (miễn khoảng 7.500 tỷ đồng/năm); giãn, hoãn thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền thuê đất và các chính sách nới lỏng về tín dụng của các ngân hàng.

Việt Nam đã tiếp tục chú trọng thực hiện tốt chính sách đối với người có công; bảo đảm an sinh xã hội; quan tâm chăm lo, trợ giúp các đối tượng yếu thế, nhất là người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; thu nhập bình quân của hộ nghèo tăng lên, đời sống của hộ nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội từng bước được cải thiện. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng từ 81,7% năm 2016 lên 90,85% năm 2020. Các đối tượng chính sách như người có công, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng kinh tế xã hội khó khăn, trẻ em dưới 6 tuổi, người trên 80 tuổi (năm 2020, 99% người cao tuổi được cấp thẻ Bảo hiểm y tế)… được ngân sách nhà nước hỗ trợ mua bảo hiểm y tế. Tỷ lệ trạm y tế xã có đủ điều kiện khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế tăng từ 90% năm 2016 lên 92,6% năm 2019 và ước đạt 92,8% năm 2020.

Chính phủ Việt Nam cũng đã ban hành các chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, trong đó có các chính sách hỗ trợ tiền mặt trực tiếp cho người lao động bị mất việc, ngừng việc, phải tạm hoãn hợp đồng lao động và tự do như việc ban hành các gói hỗ trợ 62.000 tỷ đồng (năm 2020) và 26.000 tỷ đồng (cho đến tháng 7/2021) dành cho người khó khăn vì dịch Covid-19[2]. Việt Nam cũng đã triển khai nhiều biện pháp bảo đảm quyền tiếp cận, các điều kiện sống cơ bản, tạo thuận lợi cho hoạt động của các tổ chức, cá nhân trong xã hội cùng chung tay hỗ trợ người dân vượt qua khó khăn.

Chất lượng dân số từng bước được cải thiện, tuổi thọ trung bình đến năm 2020 đạt 73,7 tuổi, tăng so với năm 2015 (73,3 tuổi). Mạng lưới y tế cơ sở tiếp tục được duy trì rộng khắp trong cả nước, trong đó có vùng biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Đặc biệt, trong thời gian phòng chống dịch Covid-19, y tế cơ sở đã có vai trò quan trọng trong cả phòng chống dịch và chăm sóc sức khỏe người dân, nhất là người cao tuổi, người mắc bệnh mãn tính tại cộng đồng.

Chính phủ Việt Nam rất coi trọng, chủ trương bảo đảm tiêm vắc-xin phòng COVID-19 miễn phí cho người dân theo các đối tượng ưu tiên theo khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Đến ngày 10/10/2021, Việt Nam đã tiêm 81,7 triệu liều vắc-xin COVID-19 cho người dân mặc dù gặp nhiều khó khăn do khan hiếm nguồn cung của thế giới, điều kiện kinh tế còn hạn chế. Chính phủ cũng thành lập Quỹ vắc-xin phòng chống COVID-19 (đến ngày 14/10/2021 đã huy động được 8.784,4 tỷ đồng), với mục tiêu tiếp nhận, quản lý, sử dụng các nguồn tài trợ, hỗ trợ, đóng góp trong nước và ngoài nước để cùng với nguồn lực ngân sách nhà nước mua, nhập khẩu vắc-xin, nghiên cứu, sản xuất vắc-xin trong nước để tiêm chủng cho người dân, bảo đảm nguồn tài chính bền vững cho việc tiêm vắc-xin phòng COVID-19, bảo đảm quyền y tế. Chính phủ cũng đã thành lập Tổ công tác về ngoại giao vắc-xin do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao củ trì để xúc tiến, vận động viện trợ vắc-xin, thuốc điều trị, vật phẩm y tế phòng, chống COVID-19; chuyển giao công nghệ sản xuất vắc-xin, thuốc điều trị từ đối tác song phương, đa phương. Đến nay, hầu hết các đối tác quan trọng và các nước bạn bè truyền thống đã hỗ trợ Việt Nam với hàng triệu liều vắc-xin (tính đến ngày 27/8, Việt Nam đã tiếp nhận trên 26 triệu liều vắc-xin phòng COVID-19).

Tính tới tháng 6/2021, số lượng người dùng Internet ở Việt Nam là gần 70 triệu người, tăng 0,8% trong giai đoạn 2020 – 2021 (chiếm hơn 70% dân số); số người sử dụng mạng xã hội ở Việt Nam là gần 76 triệu người, tăng gần 10 triệu người trong vòng 1 năm (tương đương 73,7% dân số). Với con số này, Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng Internet cao thứ 12 trên toàn thế giới và đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á. Người dùng Việt Nam dành trung bình tới gần 7 giờ mỗi ngày để tham gia các hoạt động liên quan tới Internet và tỉ lệ người dùng Internet ở Việt Nam sử dụng Internet hàng ngày lên tới 94%. Theo báo cáo xếp hạng An toàn an ninh mạng toàn cầu (GCI) năm 2020 do Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) công bố mới đây, Việt Nam đã tăng 25 bậc trong 2 năm, vươn lên vị trí thứ 25 trong tổng số 194 quốc gia, vùng lãnh thổ và đứng thứ 7 trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương và thứ 4 trong khu vực Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).

Trong thời gian vừa qua, Việt Nam đã thực hiện các khuyến nghị liên quan đến vấn đề này. Dự án Luật về hội đang trong quá trình nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện. Ngoài ra, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đang xem xét ban hành Nghị định quy định tổ chức đại diện người lao động và Thông tư quy định về thương lượng tập thể, phát huy vai trò của các tổ chức đại diện người lao động trong quan hệ lao động, tuân thủ quy định của pháp luậtViệt Nam hiện có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận và có hàng ngàn nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung độc lập được đăng ký sinh hoạt tôn giáo (trong đó có các nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam). Trong giai đoạn 2017-2020 có 03 tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo là Hội thánh Tin lành Liên hiệp truyền giáo Việt Nam, Hội thánh Phúc âm Toàn vẹn Việt Nam, Giáo hội các Thánh hữu ngày sau của Chúa Giê-su Kito Việt Nam; 01 tổ chức được công nhận pháp nhân tôn giáo là Giáo hội Phúc âm Ngũ tuần Việt Nam. Tính đến ngày 31/12/2020, cả nước hiện có 50.703 cơ sở tín ngưỡng; có 29.801 cơ sở tôn giáo, 53.390 chức sắc, 95.360 chức việc; 40.075 người vừa là chức sắc, vừa là chức việc tại 62/63 tỉnh, thành phố và 26.548.509 tín đồ. Việt Nam hiện có 63 cơ sở giáo dục, đào tạo tôn giáo gồm Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao Đài và Phật giáo Hòa Hảo với hơn 18.000 học viên đăng ký theo học các khóa đào tạo tôn giáo mỗi năm. Năm 2020 có khoảng 230 cơ sở thờ tự được xây mới, 308 cơ sở thờ tự được nâng cấp, sửa chữa.

Trong những năm gần đây, đặc biệt sau khi triển khai Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, hoạt động quan hệ quốc tế của các tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra hết sức sôi nổi, phong phú về cấp độ, số lượng và phạm vi hoạt động. Nhiều hoạt động quốc tế lớn như Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc VESAK 2019, Tổng hội dòng Đa Minh tế giới… đã được các tổ chức tôn giáo Việt Nam đăng cai và tổ chức thành công tại Việt Nam. Nhiều tổ chức, cá nhân tôn giáo đi nước ngoài để tham dự các khóa đào tạo về tôn giáo, hội nghị, hội thảo, giao lưu hợp tác với hơn 300 đoàn hoạt động, hợp tác tôn giáo ra vào Việt Nam. Hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân người nước ngoài vào Việt Nam được tạo điều kiện thuận lợi như việc đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung (hiện có 67 điểm nhóm tôn giáo tập trung của người nước ngoài cư trú hợp pháp đã được đăng ký sinh hoạt), mời chức sắc nước ngoài hoặc chức sắc Việt Nam giảng đạo, cho phép nhập khẩu văn hóa phẩm tôn giáo từ nước ngoài vào Việt Nam… Những điểm mới trong Luật Tín ngưỡng, tôn giáo cũng đã khiến thủ tục hành chính được cải cách, đơn giản hóa nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của các tổ chức, cá nhân tôn giáo như: thời gian hoạt động để được công nhận của tổ chức tôn giáo giảm từ 23 năm xuống còn 05 năm; năm 2020 đã giải quyết trên môi trường mạng 43 thủ tục đăng ký, công nhận tổ chức tín ngưỡng, tôn giáo, 18 thủ tục hành chính qua dịch vụ công trực tuyến và được theo dõi trên Trang thông tin điện tử của Ban Tôn giáo Chính phủ.

 Nhà nước ưu tiên hàng đầu cho việc bố trí ngân sách giáo dục, bảo đảm ngân sách nhà nước chi cho giáo dục, đào tạo tối thiểu 20% tổng chi ngân sách nhà nước. Không chỉ giáo dục chính quy, Nhà nước còn tạo điều kiện để người dân được học liên tục mọi nơi, học suốt đời theo nhiều hình thức khác nhau. Cụ thể, Việt Nam đã phê duyệt Đề án “Phát triển đào tạo từ xa giai đoạn 2015-2020”, Đề án “Xóa mù chữ đến năm 2020”. Trong giai đoạn 2012-2020 đã xóa mù chữ cho 295.308 người trong độ tuổi 15-60, nâng tỷ lệ biết chữ độ tuổi từ 15-60 là 97,85% và tỷ lệ biết chữ độ tuổi từ 15-35 là 99,3%. Việt Nam cũng đã ban hành nhiều chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập cho các nhóm yếu thế, trong đó tập trung hỗ trợ học sinh vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, học sinh có hoàn cảnh khó khăn.

Nước sạch và vệ sinh môi trường tại vùng nông thôn luôn được Chính phủ Việt Nam quan tâm và dành ưu tiên trong kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Các mô hình, phong trào bảo vệ môi trường trong cộng đồng dân cư có sự chuyển biến tích cực. Nhiều địa phương đã xây dựng được các mô hình, phong trào bảo vệ môi trường hiệu quả. Các chính sách, dự án về nước sạch và vệ sinh môi trường tại vùng nông thôn đã đóng góp tích cực cho kết quả xóa đói giảm nghèo tại các địa phương. Công tác quản lý môi trường khu công nghiệp (KCN) đã có những bước tiến vượt bậc. Tính đến tháng 3/2021, trên cả nước có 263/290 KCN đang hoạt động có công trình xử lý nước thải tập trung (tăng 13 KCN so với năm 2019) đạt tỷ lệ 90,69%

Việt Nam đã ban hành, sửa đổi nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này, đồng thời triển khai các biện pháp cụ thể trên thực tế để bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do biểu đạt chính đáng của người dân, phù hợp với quy định của Hiến pháp và pháp luật; đồng thời đạt những thành tựu đáng chú ý trong tăng cường việc tiếp cận thông tin rộng khắp của người dân, đặc biệt là người dân tại vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, biên giới, hải đảo.

Thành viên tích cực, trách nhiệm của cộng đồng quốc tế

Việt Nam là một trong những nước tích cực, chủ động tham gia vào hầu hết các công ước quốc tế về quyền con người do Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác ban hành. Tính đến năm 2021, Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 7/9 công ước cơ bản của Liên hợp quốc về quyền con người; phê chuẩn, gia nhập 25 công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), trong đó có 7/8 công ước cơ bản. Các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, Việt Nam cam kết thực hiện và coi đó là trách nhiệm chính trị, pháp lý của Nhà nước.

Việt Nam đã tham gia tích cực tại các khóa họp thường niên và các phiên họp đặc biệt của Hội đồng Nhân quyền (HĐNQ LHQ) về tình hình tại Myanmar, Palestine, Afghanistan, Sudan, Ethiopia, một mặt giới thiệu về các nỗ lực của Việt Nam trong thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, phản bác các thông tin sai lệch, sai sự thật, mặt khác tham gia tích cực vào các thảo luận của HĐNQ về các vấn đề toàn cầu, tình hình bảo vệ quyền con người tại các khu vực trên thế giới cần sự quan tâm đặc biệt, góp phần vào nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế trong việc đảm bảo các quyền con người cơ bản cho người dân tại tất cả các quốc gia trên thế giới.

Tháng 2/2021, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh đã tham dự và phát biểu tại Hội nghị cấp cao trong khuôn khổ Khóa 46 HĐNQ, trong đó nêu bật các chính sách, nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trong bối cảnh đại dịch. Việt Nam hỗ trợ khẩu trang, vật tư y tế cho hơn 50 nước và đối tác quốc tế, đề xuất và được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua bằng đồng thuận Nghị quyết chọn ngày 27/12 là Ngày quốc tế phòng chống dịch bệnh với mục đích nâng cao nhận thức về việc phòng ngừa và ứng phó các dịch bệnh. Đặc biệt, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Phạm Bình Minh đã thông báo việc Việt Nam, với tư cách ứng viên của ASEAN, tham gia ứng cử thành viên HĐNQ nhiệm kỳ 2023-2025, với mong muốn đóng góp nhiều và hiệu quả hơn nữa vào các nỗ lực chung của thế giới nhằm thúc đẩy và bảo vệ quyền con người.

Trong thời gian qua, các Bộ, ngành liên quan tích cực phối hợp triển khai Kế hoạch tổng thể thực hiện các khuyến nghị theo cơ chế Rà soát định kỳ phổ quát (UPR) của HĐNQ LHQ chu kỳ III được Thủ tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định số 1975/QĐ-TTg ngày 31/12/2019, trong đó có việc xây dựng kế hoạch riêng của từng Bộ ngành hoặc lồng ghép vào Kế hoạch thực hiện các khuyến nghị của Ủy ban Nhân quyền, Ủy ban Công ước Chống tra tấn và các hình thức và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm khác…

Cho đến nay, Việt Nam đã thực hiện có kết quả phần lớn các khuyến nghị và đang xây dựng Báo cáo giữa kỳ tự nguyện về việc thực hiện các khuyến nghị UPR chu kỳ III, cho thấy cam kết và sự nghiêm túc của Việt Nam trong việc triển khai các khuyến nghị nêu trên. Bộ Ngoại giao cũng đã phối hợp với Chương trình phát triển LHQ (UNDP) tổ chức các Hội thảo tham vấn với sự tham gia của các Bộ, ngành, các tổ chức chính trị – xã hội, nghề nghiệp, tổ chức phi chính phủ, học giả, các cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài tại Hà Nội… nhằm tập hợp các ý kiến đóng góp xây dựng, thực chất hoàn thiện hơn Báo cáo giữa kỳ trước khi trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, cho chuyển đến HĐNQ trong Quý I/2022.

Mới đây, Việt Nam đã hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc trong tháng 1 và tháng 4/2021 với nhiều dấu ấn, đóng góp. Những thành tựu đó được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao; thể hiện uy tín, vị thế quốc tế ngày càng tăng của Việt Nam. Trong nhiệm kỳ Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an (HĐBA) LHQ 2020 – 2021, khi làm Chủ tịch HĐBA tháng 4/2021, Việt Nam đã thúc đẩy 3 sáng kiến về Vai trò của các tổ chức khu vực trong thúc đẩy xây dựng lòng tin và đối thoại trong ngăn ngừa xung đột; Khắc phục hậu quả bom mìn và duy trì hòa bình bền vững; Bảo vệ cơ sở hạ tầng thiết yếu đối với sự sống của người dân, thúc đẩy thông qua 01 nghị quyết về vấn đề bảo vệ cơ sở hạ tầng thiết yếu và 02 Tuyên bố Chủ tịch về 2 vấn đề còn lại. Các sáng kiến này đề cao cách tiếp cận vì con người, lấy con người làm trung tâm trong tham gia giải quyết các vấn đề hòa bình, an ninh quốc tế tại HĐBA, hướng tới mục tiêu quan trọng nhất là mang đến hòa bình bền vững, giải quyết xung đột, đem lại cuộc sống an toàn, ổn định bền vững cho người dân ở các quốc gia, khu vực chịu ảnh hưởng.

Với 112 nước đồng bảo trợ, Việt Nam đã lần đầu tiên đề xuất và thúc đẩy thông qua bằng đồng thuận nghị quyết của Đại hội đồng LHQ lấy ngày 27/12 hàng năm là Ngày quốc tế phòng chống dịch bệnh, đóng góp thiết thực vào nỗ lực chung của thế giới nhằm nâng cao nhận thức về sự cần thiết sẵn sàng ứng phó với dịch bệnh thể hiện cam kết mạnh mẽ về bảo đảm quyền con người với tư cách là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng tham gia tích cực tại các diễn đàn khác của LHQ về quyền con người như ECOSOC, Ủy ban 3 Đại hội đồng… để tham gia trao đổi về các vấn đề được cộng đồng quốc tế quan tâm và giới thiệu về các nỗ lực của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền con người.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *