Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác tin bài của nhanquyenvn.org, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "nhanquyenvn.org". Tìm kiếm ngay
8584

Những thành tựu của Việt Nam trong mục tiêu bình đẳng giới (kỳ 1)

Với chủ đề “Bình đẳng giới và an toàn cho phụ nữ và trẻ em gái trong kỷ nguyên số”, Tháng Hành động (từ 15/11/2025-15/12/2025) do Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với UN Women, kêu gọi chung tay xây dựng một không gian số an toàn, văn minh và không bạo lực. Màu biểu trưng của Tháng Hành động là sắc cam, màu của hy vọng, đoàn kết và hành động. Sắc cam kêu gọi mỗi chúng ta cùng lên tiếng và hành động để chấm dứt bạo lực giới trong mọi không gian – cả trên mạng và ngoài đời thực.

 

Với hơn 50% dân số và gần 50% lực lượng lao động xã hội, ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia vào hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội và giữ những chức vụ quan trọng trong bộ máy Nhà nước. Chỉ cần điểm qua một vài con số: Hiện có tới 27,31% đại biểu nữ trong Quốc hội (cao nhất ở châu Á và là một trong những nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao nhất thế giới); tỷ lệ nữ tốt nghiệp đại học là 36,24%; thạc sĩ 33,95%; tiến sĩ 25,69%. Ngay trong giới báo chí, tỷ lệ các nhà báo nữ cũng ước tính tới gần 30%… Đây là những con số sinh động, là bằng chứng chứng minh hiệu quả của những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện cho phụ nữ Việt Nam phát triển.

Để đạt được những thành tựu ấy, nhiều năm qua Chính phủ đã có nhiều chính sách thúc đẩy bình đẳng giới. Trong đó phải kể đến Luật BHXH và Luật Lao động đã tạo ra các cơ chế hỗ trợ phụ nữ trong vai trò người mẹ, người lao động, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ trong công việc và cuộc sống. 
Chính phủ cũng đã triển khai nhiều chương trình, đề án như đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp”, “Bình đẳng giới trong các lĩnh vực kinh tế”, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển kinh tế, nâng cao đời sống.
Một trong những chính sách quan trọng thể hiện sự quan tâm nhằm bảo vệ cho người phụ nữ là Luật Phòng chống bạo lực gia đình giúp bảo vệ phụ nữ khỏi bạo lực, tăng cường sự hỗ trợ từ xã hội đối với những nạn nhân của bạo lực gia đình. Chính sách này đã có tác động lớn đến việc cải thiện đời sống gia đình và giảm thiểu các vấn đề xã hội liên quan đến bạo lực giới.
Chính phủ cũng đã phê duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 – 2030, với mục tiêu cụ thể là tăng tỉ lệ nữ tham gia lãnh đạo ở các cấp, đảm bảo việc làm và thu nhập cho phụ nữ cũng như cải thiện điều kiện sống và làm việc của phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ ở các khu vực nông thôn, miền núi và dân tộc thiểu số.
Nhiều năm qua, đại diện UNICEF tại Việt Nam đều ghi nhận, đánh giá cao những nỗ lực của Việt Nam trong việc thúc đẩy bình đẳng giới qua chính sách và pháp luật.
Xin được điểm lại một vài mục tiêu “thời sự” nhất của bình đẳng giới.
Về mục tiêu phụ nữ tham chính, đây là mục tiêu đặc biệt quan trọng, nói đến bình đẳng giới là phải nói phụ nữ tham chính. Nhưng đánh giá mục tiêu này là phải xem xét cả thời kỳ với thời gian tương đối dài. Sau 10 năm thực hiện Chiến lược bình đẳng giới theo Chương trình mục tiêu quốc gia bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020, về tỷ lệ phụ nữ tham gia các cơ quan dân cử  Việt Nam xếp thứ 60 trên thế giới, đứng thứ 4 ở châu Á và đứng đầu trong Hội đồng Liên minh Nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á; Về tham chính và quản lý, Việt Nam đứng thứ 3 trong khu vực ASEAN và đứng thứ 47/187 quốc gia trên thế giới tham gia xếp hạng.
Thực thi Chiến lược quốc gia bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030 bước đầu cho thấy tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan Đảng và Nhà nước ngày càng được nâng cao cả về số lượng và chất lượng. Trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII có 19 đồng chí nữ, chiếm 9,5% tổng số Ủy viên Trung ương. Quốc hội khóa XV đạt tỷ lệ 30,26% đại biểu nữ (cao nhất kể từ Khóa VI – Khóa Quốc hội thống nhất cả nước đến nay). Tỷ lệ các bộ, cơ quan ngang bộ có lãnh đạo chủ chốt (là Bộ trưởng, Thứ trưởng và tương đương) tham gia lãnh đạo, quản lý cơ quan là nữ đạt 50%.
Ban Chấp hành Đảng bộ cấp tỉnh có 16% là các đồng chí nữ; Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có 29% là đại biểu nữ. Có 47/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có lãnh đạo chủ chốt là nữ (bao gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh), chiếm 74,6%.
Theo thống kê của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về lãnh đạo chủ chốt cấp huyện: có 12 tỉnh, thành phố, ở cấp huyện có nữ lãnh đạo chủ chốt đạt 60% trở lên; có 11 tỉnh, thành phố ở cấp huyện có lãnh đạo chủ chốt là nữ đạt từ 50% đến dưới 60%.
Về lãnh đạo chủ chốt là nữ của cấp xã: Có 10 tỉnh, thành phố ở cấp xã có nữ là lãnh đạo chủ chốt đạt 60% trở lên và 8 tỉnh, thành phố đạt từ 50% đến dưới 60%…
Các số liệu trên cho thấy, so với mục tiêu đến năm 2025 đạt 60% các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ thì hầu như đến hết năm 2023 mục tiêu này đã vượt.
Về mục tiêu kinh tế, lao động – việc làm, có 3 chỉ tiêu cụ thể: Chỉ tiêu 1 là tăng tỷ lệ lao động nữ làm công ăn lương lên đạt 50% vào năm 2025: Kết thúc năm 2023, trên tổng số 23,98 triệu lao động làm công ăn lương, thì số lao động nữ là 12,21 triệu, chiếm 50,9%. Nghĩa là chỉ tiêu này về đích trước 2 năm.
Chỉ tiêu 2 là giảm tỷ trọng lao động nữ làm việc trong khu vực nông nghiệp trong tổng số lao động nữ có việc làm xuống dưới 30% vào năm 2025: Hiện nay có gần 24 triệu lao động nữ có việc làm, trong đó lao động nữ thuộc khu vực nông, lâm, thủy sản chiếm gần 6,29 triệu người, chiếm hơn 26,2% . Chỉ tiêu này cho thấy sự dịch chuyển lao động nữ từ nông nghiệp sang các ngành nghề phi nông nghiệp đang diễn ra tương đối nhanh.
Chỉ tiêu 3 là tỷ lệ nữ Giám đốc, Chủ doanh nghiệp đạt ít nhất 27% vào năm 2025: Chỉ tiêu này được công bố 5 năm 1 lần từ kết quả Tổng điều tra kinh tế. Năm 2020, tỷ lệ nữ giám đốc, Chủ doanh nghiệp đã đạt 28,2%, nghĩa là đã đạt được mục tiêu chiến lược đến năm 2025.

Bài viết cùng chủ đề:

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *