Cứ đến dịp này hàng năm, đám khát nước lại đào bới, xuyên tạc lịch sử bằng luận điệu lố bịch, vô lý, bất chấp hiện thực. Chẳng hạn như chúng lại lảm nhảm, cho rằng giành được chính quyền năm 1945 đó là “sự ăn may”, bất chấp thực tế chật vật xây dựng lực lượng, xác định thời cơ, chuẩn bị sẵn mọi điều kiện nắm bắt thời cơ của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh mới làm nên sự kiện “long trời lở đất” này.
Tháng 11/1939, Hội nghị lần thứ 6 BCH TW Đảng (họp tại Bà Điểm, Hóc Môn, Gia Định) nhận định Nhật sẽ xâm chiếm Đông Dương và Pháp sẽ đầu hàng Nhật, cách mạng Đông Dương sẽ bùng nổ; nên ta phải đoàn kết thực hiện cho bằng được nhiệm vụ chính cốt là đánh đổ đế quốc, giải phóng dân tộc. Theo đó, Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương ra đời. Tháng 6/1940, phát xít Ðức tiến công Pháp, Pari nhanh chóng thất thủ và đến tháng 9/1940 thì ở Việt Nam, Nhật nổ súng đánh chiếm Lạng Sơn, ném bom Hải Phòng, đổ bộ vào Đồ Sơn. Giữa lúc Nhật – Pháp đang tranh nhau miếng mồi Ðông Dương, Hội nghị lần thứ 7 BCH TW Đảng tháng 11/1940 (tại Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh) xác định kẻ thù của cách mạng Đông Dương là Pháp – Nhật, đẩy mạnh thêm một bước thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Tháng 5/1941, Hội nghị lần thứ 8 BCH TW Đảng (tại Pác Bó, Hà Quảng, Cao Bằng) do Bác Hồ chủ trì, nhận định thắng lợi cuối cùng thuộc về phe đồng minh, nên ta phải tích cực chuẩn bị lực lượng và đứng về phe đồng minh chống phát xít, bằng mọi giá phải giải phóng dân tộc, Mặt trận Việt Minh ra đời. Tiếp đó, trong Thư kính cáo đồng bào (6/6/1941), Bác Hồ kêu gọi “nay cơ hội giải phóng đến rồi’, “hãy phất cao cờ độc lập”, “toàn thể đồng bào tiến lên”, rồi trong tác phẩm Lịch sử nước ta xuất bản đầu năm 1942, Người dự báo năm 1945 Việt Nam độc lập. Đến Hội nghị tháng 2/1943, Đảng xác định cách mạng Đông Dương “có thể bỗng chốc tiến lên bằng những bước nhảy cao” và tháng 5/1944, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị Sửa soạn khởi nghĩa. Từ tháng 10/1944, Người nhận định phe phát xít gần đến ngày bị tiêu diệt, phe đồng minh sắp thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho ta giải phóng dân tộc chỉ trong một hoặc một năm rưỡi nữa.
Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, Ðảng ta nhận định thời cơ khởi nghĩa đang đến, nên ngày 12/3/1945 ra Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”; phát động cao trào kháng Nhật cứu nước. Tháng 7/1945, khi phát xít Ðức, Ý bại trận ở chiến trường châu Âu, phát xít Nhật đang trên đường sụp đổ ở chiến trường châu Á, thì tại lán Nà Lừa, Bác Hồ tuy đang ốm rất nặng nhưng vẫn căn dặn: “Lúc này, thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Tháng 8/1945, Nhật đầu hàng đồng minh, binh lính Nhật ở Đông Dương hoang mang cực độ, chính phủ tay sai Trần Trọng Kim như “rắn mất đầu”. Trong khi đó, quân đồng minh chưa kịp kéo vào Đông Dương, các thế lực thù địch đang cấu xé, tranh giành quyền lực, điều kiện khách quan thuận lợi cho tổng khởi nghĩa đã chín muồi. Ngày 12/8/1945, được tin Nhật gửi công hàm cho các nước Đồng minh đề nghị mở cuộc đàm phán ngừng bắn thì ngày 13/8/1945, Đảng ta triệu tập Hội nghị toàn quốc tại Tân Trào (Tuyên Quang) xác định đây là “dịp tốt cho ta nổi lên khôi phục nước nhà tổ tông”; đồng thời dự đoán mâu thuẫn giữa Anh – Mỹ – Pháp và Liên Xô có thể làm cho Anh – Mỹ nhân nhượng với Pháp để cho Pháp trở lại Đông Dương, nên phải “kịp thời, không bỏ lỡ thời cơ” tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay Nhật trước khi quân đồng minh vào Đông Dương.
Trưa 13/8/1945, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc thành lập thì đêm hôm đó, Lệnh khởi nghĩa (Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa) phát đi thông điệp: Giờ tổng khởi nghĩa đã đến. Cơ hội có một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà… Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng. Ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân Trào, thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”; quy định quốc kỳ, quốc ca…; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngay sau đó, Người có thư kêu gọi nhân dân cả nước tổng khởi nghĩa, chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Tổng khởi nghĩa chính thức diễn ta từ đêm 13 rạng sáng ngày 14/8/1945. Đến ngày 28/8/1945, các địa phương trong cả nước tiến hành Tổng khởi nghĩa giành được chính quyền về tay nhân dân. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
Nhìn lại thời điểm đó, các đồng minh Anh, Mỹ, Pháp, Tưởng cùng một số thế lực khác – những kẻ chủ mưu định đoạt số phận Đông Dương và Việt Nam từ tháng 7/1945, đã bị lỡ tàu trong hành trình chạy đua giành quyền làm chủ đất nước ta từ tay phát xít Nhật. Chúng đã hoàn toàn bất ngờ vì không đánh giá được thực lực của cách mạng Việt Nam.
Bối cảnh khu vực, thế giới lúc bấy giờ và trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam, chúng ta càng thấy sự vĩ đại, càng khâm phục tài năng, tính sáng tạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh và sức mạnh đại đoàn kết, ý chí quyết tâm của cả dân tộc Việt Nam được kết tinh từ mấy ngàn năm văn hiến. Đó là bằng chứng thiết thực nhất phản bác luận điệu mà các thế lực thù địch, phản động lâu rêu rao: “Cách mạng tháng tam 1945 là một sự ăn may”.