Ngày 19/11/2023, trên RFA có cuộc thảo luận về “Tại sao việc tìm hài cốt binh sỹ VNCH gặp khó?” với sự tham gia ông Andrew Well-Dang (Giám đốc Chương trình hòa giải và Di sản Chiến tranh Việt Nam), bác sĩ Nguyễn Đông Châu, Chủ tịch Sáng hội Việt – Mỹ. Theo đó, phóng viên RFA nêu nhiều câu hỏi xoáy vào căn nguyên khiến cho việc tìm kiếm hài cốt binh sỹ VNCH sau 50 năm khó khăn, ẩn ý là phía Chính phủ Việt Nam thiếu cơ chế, chính sách giúp việc “hòa hợp dân tộc” cho linh hồn người lính trong Quân lực VNCH được hưởng chính sách nhân đạo, được “bình đẳng” như với những người đang yên nghỉ trong các nghĩa trang liệt sỹ ở Việt Nam. Ông Andrew thể hiện cách tiếp cận mang tính khách quan lịch sử, trong chiến tranh, đều có mất mát, hy sinh, việc giải quyết vấn đề tìm kiếm hài cốt của binh sỹ Hoa Kỳ được tiến hành công phu, với sự hỗ trợ tích cực từ Chính phủ Việt Nam. Còn phía Việt Nam thì đương nhiên là họ chủ động tìm kiếm, qui tập mộ liệt sỹ. Còn phía VNCH do là bên sụp đổ, thất bại, không ai đứng ra xử lý, nên rất khó khăn tìm kiếm, qui tập. Sau 50 năm, cần tiếp tục tiến hành giải quyết việc này, song chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn, vì nhiều lý do, trong đó có một lý do là những thông tin liên quan dần chìm vào quên lãng, nhất là khi mà những binh sỹ Hoa Kỳ cũng như binh sỹ VNCH từng tham chiến ở chiến trường Việt Nam trước năm 1975 giờ đã quá già hoặc không còn nữa, chưa kể địa hình thay đổi, khí hậu có nhiều tác động tiêu cực đến việc tìm kiếm. Còn ông Châu thì nêu những khó khăn trong nhận thức và hành động của “bên thắng cuộc” chưa cao, bên cạnh đó còn thiếu kinh phí, thiếu nguồn lực, khó khăn nhất là việc thử AND vì người thân tử sỹ VNCH không còn hoặc không liên lạc được…
Đây là chiêu trò mới của RFA thời gian gần đây hay xoáy vào. Trước đó, RFA có một số bài xuyên tạc chế độ dành cho thương binh, liệt sỹ, so sánh nó với thương phế binh VNCH để lên án chính sách hòa hợp hòa giải dân tộc.
Bình luận về chiêu trò này, ông Trương Tử Nam cho rằng với động cơ đổ lỗi cho phía Chính phủ Việt Nam bằng lối suy diễn, yêu sách như đòi phía Chính phủ Việt Nam đối xử với binh lính tử trận của phía VNCH giống như với chiến sỹ trong quân đội “Bắc Việt”, coi đó là thực thi nhân quyền trong lĩnh vực “linh quyền” là vô lý, vô lối, bất khả thi hay nói cách khác, giả ngây giả ngô để xuyên tạc, đánh tráo bản chất lịch sử, kích động chia rẽ dân tộc.
Việc minh họa cho chủ đề này là Nghĩa trang Biên Hòa, nay là Nghĩa trang Nhân dân Bình An đã được chuyển giao quyền quản lý từ quân sự sang dân sự, cho phép các cá nhân, tổ chức liên quan được tu bổ nghĩa trang là minh chứng cho tinh thần hòa hợp dân tộc. Còn so sánh với các nghĩa trang liệt sỹ đã hy sinh vì độc lập, vì thống nhất non sông đất nước, thì rõ ràng đó là sự tương phản. Xét về mặt lịch sử, lẽ đương nhiên, sau cuộc chiến, mỗi bên tham chiến đều phải lo việc hiếu, việc nghĩa cho người đã ngã xuống và đền ơn đáp nghĩa với thân nhân của người đã hy sinh vì nước. Phía Mỹ, sau cuộc chiến tranh thì đương nhiên họ đã đặt lên bàn đối thoại với Chính phủ Việt Nam vấn đề phối hợp, hỗ trợ tìm kiếm người Mỹ mất tích, đưa hài cốt lính Mỹ hồi hương, dù phía họ không thiếu tiền, song công việc cũng chẳng hề dễ dàng, đến nay sau nửa thế kỷ mà vẫn chưa hoàn thành. Ngay cả phía Việt Nam, việc tìm kiếm trên lãnh thổ của mình, việc tìm kiếm trên lãnh thổ của nước bạn Lào và Cam – pu – chia cũng gặp muôn vàn khó khăn. Những chiến sĩ Việt Nam dù còn nằm lại đâu đó trong lòng đất mẹ, họ vẫn được an ủi vì linh hồn của họ luôn hòa quyện trong đất nước của mình, bất tử trong lòng người còn sống. Riêng phía VNCH vì là bên sụp đổ, mất hết nguồn lực, mất hết cơ sở để đi tìm hài cốt của những người đã tử trận vì do chọn đường sai, hoặc bị ép buộc, lừa dối bởi cái bóng “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền” mà các thế lực cầm quyền từ Hoa Kỳ gieo rắc ảo mộng. Những người theo đuổi luận điệu “chiến tranh Việt Nam là nội chiến”, chẳng hạn như ý kiến của ông Châu trong cuộc hội luận nêu trên, khi ông này dẫn hình tượng “nồi da xáo thịt”. Đó quả là cách tiếp cận lệch lạc, đánh tráo khái niệm chiến tranh Việt Nam, đổ lỗi cho phía “Việt cộng Bắc Việt xâm lược miền Nam”.
Việc đòi hỏi phía Chính phủ Việt Nam phải thể hiện thiện chí bằng cách đề ra chương trình nào đó, đại loại như nâng cấp Nghĩa trang Biên Hòa, tổ chức lực lượng tìm kiếm hài cốt binh sỹ VNCH giống như đã và đang làm với các liệt sỹ của mình thì thật là bất khả tri và bất khả thi. Cái gì đã thuộc về quá khứ, dù đau thương hay vinh quang cũng là hai mặt của một cuộc chiến tranh, có chính nghĩa và có phi nghĩa, chính nghĩa thuộc về những ai dám xả thân vì sự trường tồn dân tộc, phi nghĩa thuộc về những ai đem giá trị dân tộc làm món quà tặng kẻ xâm lăng.
Dân tộc Việt Nam vốn giàu lòng trắc ẩn, giàu tính nhân đạo. Chẳng hạn như với vô số binh sỹ nhà Thanh bị chết trong mùa xuân Ất Dậu 1789, đã được người Việt vùi chôn tại Gò Đống Đa, vẫn thắp nhang an ủi thường niên. Hay như mấy chục vạn quân Minh, bị giam nhốt co rúm tại thành Đông Quan, mà nghĩa quân Lam Sơn còn mở đường hiếu sinh, cấp cho thuyền, ngựa, lương thực cuốn xéo về cố quốc. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, nhiều phi công Mỹ bị bắn rơi, cũng đã được người dân Việt Nam đưa lên xe bò chở đi “ăn dưỡng” trong “Khách sạn Hỏa Lò”. Giờ đây, những thân nhân của các bộ hài cốt đang cô quạnh trong Nghĩa trang Nhân dân Bình An có người không còn, hoặc có người cứ mãi theo đuổi mộng báo oán chính trị, nên lo ôm cờ vàng ba sọc; thậm chí còn có những người lại đang tái dựng nghĩa trang Biên hòa trên đất Mỹ. Đất nước Việt Nam hiện nay dù đã có nhiều việc làm thể hiện tính hòa hợp dân tộc, song không thể bao quát hết mọi việc, nhất là như việc phải có chính sách “bình đẳng” với linh hồn người từng ở bên kia chiến tuyến. Nguyên cái việc giao lại quyền quản lý dân sự và đặt tên Nghĩa trang Nhân dân Bình An đã thể hiện tư tưởng nhân đạo, nhân văn.
Có một thông điệp lịch sử xin truyền lại cho bất kỳ ai còn theo đuổi mộng “tái hồi” thể chế VNCH trên nửa nước Việt Nam như trước ngày 30/4/1975, rằng: dân tộc này chưa từng khuất phục kẻ ngọại bang, và những kẻ ôm gót ngoại bang đều chịu kết cục không hay.