Việt Nam với khoảng 1/3 dân số sinh sống ở vùng duyên hải, 28 tỉnh/thành giáp biển đóng góp khoảng hơn 50% tổng GDP, Việt Nam nhận thức rõ vai trò quan trọng của biển trong chiến lược bảo vệ an ninh, chủ quyền và phát triển. Sau hơn 10 năm triển khai và đúc rút kinh nghiệm từ Chiến lược biển đến năm 2020 tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương (BCHTW) Đảng khoá X năm 2007, Hội nghị lần thứ 8 BCHTW Đảng khoá XII năm 2018 đã thông qua Nghị quyết 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Thực tế quá trình triển khai công tác bảo vệ chủ quyền và phát triển kinh tế biển thời gian qua cũng cho thấy những bước phát triển quan trọng trong nhận thức và hành động bảo vệ chủ quyền, an ninh và phát triển kinh tế biển của Việt Nam.
Biển Đông đang nổi lên là địa bàn cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc, đặc biệt là cạnh tranh Trung – Mỹ. Cạnh tranh này còn phức tạp, khó lường trong bối cảnh đại dịch COVID-19 có khả năng đẩy nhanh quá trình thay đổi cán cân lực lượng giữa các cường quốc trên thế giới. Trung Quốc trỗi dậy với 2 mục tiêu 100 năm và Giấc mộng Trung Hoa, không ngừng mở rộng ảnh hưởng trên biển, gia tăng sử dụng sức mạnh tổng hợp để kiểm soát Biển Đông, đẩy các cường quốc khác ra ngoài khu vực. Song Trung Quốc cũng có nhiều yếu huyệt khi các tuyên bố lập trường và hoạt động trên thực địa vi phạm nghiêm trọng các quy định của luật pháp quốc tế. Mỹ ngày càng tấn công mạnh vào các hoạt động phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông, đồng thời ngầm vận động sự ủng hộ của các nước trong và ngoài khu vực. Tại Nghị quyết số 36-NQ/TW từ năm 2018 của Đảng đã dự báo: “Trong thời gian tới, tình hình quốc tế tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp, đặc biệt là sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, tranh chấp chủ quyền ranh giới biển và sự bất đồng giữa các nước tại Biển Đông”.
Bên cạnh đó, các phát minh khoa học có thể tạo ra những thay đổi lớn trong cục diện biển; vừa mở ra các năng lực mới giúp con người hiểu biết và khai thác tốt hơn các không gian biển, song cũng dẫn đến nhiều tác động tiêu cực, làm gia tăng cạnh tranh và kiểm soát ở các không gian mở như vùng biển quốc tế. Công nghệ mới giúp nâng cao khả năng do thám, trinh sát, khả năng hậu cần, khả năng tác chiến với các loại vũ khí hiện đại. Trong cuộc cạnh tranh này, các nước nhỏ sẽ luôn ở thế yếu hơn và đi sau. Ở Biển Đông, Trung Quốc đang đang triển khai những phát minh khoa học mới nhất như hệ thống radar, các thiết bị gây nhiễu sóng, máy bay tân tiến để bảo vệ và củng cố các đảo nhân tạo tại Biển Đông, thực thi các yêu sách trên Biển Đông và tạo ra những thay đổi mạnh mẽ với cục diện khu vực.
Trong bối cảnh tình hình trên, Việt Nam xác định quan điểm: “Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tăng cường đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển, góp phần duy trì môi trường hoà bình, ổn định cho phát triển”. Trong giai đoạn hiện nay vấn đề cấp thiết đặt ra là thực hiện hai nhiệm vụ vừa phát triển bền vững kinh tế biển, vừa bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.
Ngư dân Việt Nam trên biển không chỉ khai thác hải sản mà còn bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc
Bảo đảm an ninh–chủ quyền, giữ vững đường lối đối ngoại độc lập
Trước những diễn biến phức tạp ở Biển Đông thời gian qua, Việt Nam đã thực hiện cơ bản chiến lược bảo đảm chủ quyền, an ninh, đồng thời duy trì được quan hệ đối ngoại tự chủ, không bị lôi kéo vào các tranh chấp địa chính trị giữa các nước lớn
Trên mặt trận chính trị – đối ngoại, chính sách của Việt Nam ở Biển Đông đã vận dụng thành công chủ trương giữ vững độc lập, tự chủ trong hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc tế. Trong hơn một thập kỷ qua, ta đã công khai đấu tranh chống lại các tuyên bố, hoạt động vi phạm chủ quyền và quyền chủ quyền ở Biển Đông trên nhiều cơ chế, diễn đàn, trong đó có việc gửi nhiều công hàm khẳng định lập trường và yêu sách lên các cơ quan khác nhau của LHQ, sử dụng các cơ chế của ASEAN để phê phán các hoạt động vi phạm luật pháp quốc tế ở Biển Đông, nêu cao chính nghĩa của ta và đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật.
Bên cạnh đó, các chương trình hợp tác quốc tế về biển của Việt Nam đã được mở rộng. Trong vài năm gần đây, nhiều nước đã cung cấp, viện trợ tàu tuần tra cho Việt Nam như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ…, cùng nhiều dự án xây dựng năng lực khác. Năm 2018, lần đầu tiên Việt Nam tham gia tập trận RIMPAC ở cấp độ cử sĩ quan, và trong lĩnh vực cứu hộ, cứu nạn. Tàu chiến của các nước ghé thăm cảng của Việt Nam với tần suất nhiều hơn, đa dạng hơn. Một số chương trình hợp tác về an ninh biển, cứu hộ cứu nạn, chống thiên tai và cứu trợ nhân đạo được thực thi. Điều này tạo thuận lợi cho ta trong việc đối thoại, trao đổi thông tin, tăng cường hợp tác với các nước để đối phó với cả tình hình Biển Đông đang ngày càng phức tạp, cũng như các nguy cơ an ninh phi truyền thống.
Trong bối cảnh cạnh tranh Trung-Mỹ ở Biển Đông ngày càng quyết liệt, Việt Nam đã ứng xử khéo léo bảo đảm duy trì được độc lập, tự chủ; không bị kéo vào cuộc cạnh tranh nước lớn. Gần nhất, tháng 7/2020, sau khi Ngoại trưởng Mỹ Pompeo ra tuyên bố khẳng định lại lập trường của Mỹ và cáo buộc các hoạt động vi phạm luật pháp quốc tế của Trung Quốc ở Biển Đông, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã khéo léo khẳng định “Việt Nam hoan nghênh lập trường của các nước về vấn đề Biển Đông phù hợp với luật pháp quốc tế” và tái khẳng định “Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982 là khuôn khổ pháp lý điều chỉnh mọi hoạt động trên biển và đại dương”. Bằng tuyên bố này, Việt Nam ngầm ủng hộ Mỹ tố cáo các hoạt động vi phạm luật pháp quốc tế của Trung Quốc ở Biển Đông, song tránh không gửi sai tín hiệu rằng Việt Nam đi theo Mỹ trong vấn đề Biển Đông.
Phát triển kinh tế biển bền vững
Phát triển bền vững kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia là vấn mang tính chiến lược, xuyên suốt của Việt Nam trong nhiều năm qua. Thực tiễn triển khai thời gian qua cho thấy, nhờ việc xác định chiến lược đúng đắn mà Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ trong phát triển lực lượng và bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, tạo ra các động lực để phát triển kinh tế biển và các địa bàn ven biển, từng bước hình thành nhận thức chung và đồng thuận lớn hơn về vai trò của biển đối với sự phát triển lâu dài của dân tộc, thúc đẩy nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ để khám phá và khai thác tài nguyên biển.
Cùng với nhiệm vụ bảo vệ và giữ vững chủ quyền, chiến lược biển của Việt Nam vẫn đặt ưu tiên hàng đầu cho phát triển bền vững kinh tế biển. Nghị quyết số 36-NQ/TW đặt ra mục tiêu “Các ngành kinh tế thuần biển đóng góp khoảng 10% GDP cả nước; kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển ước đạt 65-70% GDP cả nước. Các ngành kinh tế biển phát triển bền vững theo các chuẩn mực quốc tế; kiểm soát khai thác tài nguyên biển trong khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển”. Để đạt được mục tiêu này, Đảng đã xác định ưu tiên lần lượt cho các lĩnh vực: (1) Du lịch và dịch vụ biển; (2) Kinh tế hàng hải; (3) Khai thác dầu khí và các tài nguyên khoáng sản biển khác; (4) Nuôi trồng và khai thác hải sản; (5) Công nghiệp ven biển; (6) Năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới.
Tháng 3/2020, Chính phủ ban hành Nghị quyết 26/NQ-CP về kế hoạch 5 năm thực hiện Nghị quyết 36 và đã quyết liệt đẩy mạnh thực hiện Chiến lược này. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, thời gian qua, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) của các địa phương ven biển tăng trưởng bình quân đều cao hơn so với nhịp tăng trưởng chung của cả nước. Ngoài ra, triển khai nhiệm vụ và đường lối phát triển bền vững kinh tế biển còn đạt được nhiều thành công trên các mặt du lịch và dịch vụ biển, kinh tế hàng hải, hệ thống cảng biển được xây dựng và phát triển cả về qui mô về số lượng, mật độ. Các chính sách về hỗ trợ ngư dân khai thác hải sản, đóng tàu đánh bắt xa bờ có tác dụng tích cực. Sản lượng khai thác hải sản hằng năm tăng nhanh và liên tục. Đến nay, có hơn 620 cơ sở chế biến thủy, hải sản quy mô công nghiệp, trong đó có 415 nhà máy chế biến đạt tiêu chuẩn xuất khẩu vào những thị trường yêu cầu cao về chất lượng, an toàn thực phẩm (Nhật Bản, Mỹ, EU…).
Nhiều khu kinh tế ven biển được thành lập thu hút các dự án đầu tư nước ngoài lớn như Nghi Sơn, Vũng Áng, Chu Lai, Dung Quất đã đóng góp vai trò quan trọng trong tăng cường năng lực sản xuất ngành công nghiệp cả nước, đồng thời tạo điều kiện để thúc đẩy nhiều ngành khác. Nhờ triển khai đúng đắn các chủ trương, nhiệm vụ về phát triển kinh tế biển mà đời sống, mức sống của nhân dân vùng ven biển và trên các đảo được cải thiện rõ rệt cả về vật chất và tinh thần. Thu nhập bình quân đầu người ở các địa phương ven biển tăng lên, các tỉnh thành ven biển cũng giải quyết việc làm cho lượng lớn các lao động trong cả nước.