PGS.TS Trần Quang Tiến, Giám đốc Học viện Phụ nữ Việt Nam nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thảo luận các nghiên cứu khoa học và tìm ra các giải pháp thực tiễn để nâng cao chất lượng cuộc sống của phụ nữ và trẻ em vùng dân tộc thiểu số miền Bắc.
Hội thảo Khoa học quốc gia khu vực miền Bắc với chủ đề Rà soát, xác định vấn đề xã hội cấp thiết với phụ nữ, trẻ em vùng dân tộc thiểu số và miền núi. |
Hội thảo gồm hai phiên chính. Phiên thứ nhất tập trung vào việc tổng kết kết quả triển khai Dự án 8 tại khu vực miền Bắc giai đoạn 2022-2024, đồng thời rút ra các bài học kinh nghiệm. Phiên thứ hai đề cập đến những vấn đề xã hội cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em dân tộc thiểu số miền núi khu vực miền Bắc.
Các đại biểu đã cùng trao đổi, thảo luận, xác định 5 nhóm vấn đề khó khăn, ảnh hưởng trực tiếp đến phụ nữ, trẻ em vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Thứ nhất, sinh kế và việc làm. Phụ nữ dân tộc thiểu số gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn vay và phát triển các tổ hợp tác, nhóm sinh kế. Họ chịu áp lực giới truyền thống, cùng với đó là thách thức khi tham gia phát triển du lịch gắn với bảo tồn văn hóa và nông sản OCOP. Họ thiếu sự hỗ trợ hiệu quả từ các dịch vụ việc làm và khởi nghiệp cho phụ nữ dân tộc thiểu số.
Thứ hai, giáo dục và sức khỏe. Tỷ lệ trẻ em dân tộc thiểu số bỏ học/thôi học sớm cao, định hướng giáo dục nghề nghiệp hạn chế. Các em gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận các dịch vụ y tế, đặc biệt là chăm sóc sức khỏe vị thành niên. Tình trạng tử vong của bà mẹ và trẻ em ở các vùng dân tộc thiểu số vẫn ở mức cao, cần có các giải pháp cải thiện.
Thứ ba, hôn nhân và gia đình. Tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết còn phổ biến, gây ra nhiều hệ lụy xã hội nghiêm trọng. Vấn đề bạo lực gia đình cũng là một mối lo ngại, với sự thiếu can thiệp và hỗ trợ pháp lý kịp thời.
Thứ tư, phụ nữ tham chính và chính sách pháp luật. Sự tham gia của phụ nữ dân tộc thiểu số vào các vị trí lãnh đạo, quản lý tại địa phương còn thấp, tiếng nói của họ trong các cuộc họp tại địa phương chưa được lắng nghe đầy đủ. Cần nâng cao nhận thức về pháp luật, đặc biệt trong việc vận dụng các chính sách xóa đói giảm nghèo.
Thứ năm, công nghệ thông tin và hạ tầng. Khó khăn trong tiếp cận công nghệ thông tin cản trở phụ nữ dân tộc thiểu số tiếp cận thông tin và phát triển kinh tế số.
Một đại biểu trình bày tham luận tại Hội thảo. |
Nhiều ý kiến tại hội thảo cho rằng, cần tăng cường truyền thông về bình đẳng giới, đào tạo nâng cao năng lực cho phụ nữ dân tộc thiểu số và đẩy mạnh giáo dục bình đẳng giới trong gia đình, nhà trường, cộng đồng. Bên cạnh đó, thúc đẩy sự tham gia của trẻ em, thu hút sự tham gia của nam giới, trẻ em trai trong thực hiện bình đẳng giới.
Cần chú trọng truyền thông trên nền tảng số kết hợp truyền thông trực tiếp tại cộng đồng, phát hành các sản phẩm truyền thông, phổ biến chính sách, pháp luật về bình đẳng giới và phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới phù hợp với từng địa bàn, đối tượng cụ thể. Ngoài ra, lồng ghép vấn đề giới trong xây dựng các luật có liên quan, giám sát chấp hành chính sách, pháp luật trong thực thi luật liên quan đến quyền lợi chính đáng đối với phụ nữ và trẻ em.
Hội thảo đã mang đến những giải pháp thiết thực nhằm giải quyết các vấn đề cấp thiết của phụ nữ và trẻ em dân tộc thiểu số, đóng góp quan trọng vào việc hoàn thiện chính sách trong giai đoạn tiếp theo của Dự án 8, hướng tới mục tiêu bình đẳng giới và phát triển bền vững.
Dự án 8 là một trong 10 dự án thành phần thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030.
Sau gần 3 năm triển khai, Dự án 8 đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận tại 40 tỉnh được cấp ngân sách Trung ương và 11 tỉnh tự chủ ngân sách. Các hoạt động của dự án tập trung vào việc tuyên truyền, vận động thay đổi định kiến giới, xây dựng và nhân rộng các mô hình nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ, triển khai các chương trình đào tạo và trang bị kiến thức về bình đẳng giới cho đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị và cộng đồng. |