Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác tin bài của nhanquyenvn.org, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "nhanquyenvn.org". Tìm kiếm ngay
67711

Biện pháp giám sát quyền tự do ngôn luận trên Internet

Về việc giám sát tự do ngôn luận trên Internet, Báo cáo viên đặc biệt Frank Larue cũng nhận xét trong báo cáo của ông đó là, “phương pháp phổ biến nhất mà các quốc gia đang sử dụng để hạn chế các nội dung biểu đạt bị cấm trên Internet là thông qua việc chặn các nội dung đó.”[1]

Trong thực tế, để giám sát những hành vi vượt quá giới hạn của tự do ngôn luận trên không gian mạng, các quốc gia đang sử dụng một hoặc đồng thời các biện pháp như: kiểm duyệt trước (prior censorship); hình sự hóa các tuyên bố trực tuyến bị xem là vi phạm pháp luật (criminalization of online-specific speech); ban hành quy định pháp luật bắt buộc người dùng mạng xã hội phải tiết lộ danh tính (identity disclosure laws).

Kiểm duyệt trước: Biện pháp kiểm duyệt trước được một số quốc gia áp dụng để giám sát những thông điệp có liên quan đến chính trị, tôn giáo và xã hội được chuyển tải trên Internet. Ví dụ như ở Thổ Nhĩ Kì, người dùng Internet bị cấm có bất kì hành động chỉ trích nào liên quan đến Ataturk – người sáng lập đất nước Thổ Nhĩ Kì hiện đại; hay như ở Thái Lan, chính phủ cấm người dùng đề cập đến sự nổi dậy đòi ly khai ở khu vực miền nam nước này và tới vị trí, vai trò của Hoàng gia; còn ở Malaysia, người dùng Internet sẽ bị phạt nếu có thông điệp “gây bất lợi cho dân chủ nghị viện.”

Hình sự hóa các tuyên bố trực tuyến: Một số quốc gia đã hình sự hóa một số hình thức tuyên bố trực tuyến liên quan tới chính trị, tôn giáo và xã hội (người dùng có thể không bị phạt khi đưa ra những tuyên bố này trong trường hợp ngoại tuyến). Ví dụ, ở Indonesia, hành vi phỉ báng người khác trên mạng (electronic defamation, bằng lời hay bằng văn bản) có thể bị phạt tù đến 6 năm hoặc phải chịu phạt một khoản tiền bồi thường lớn (trong khi nếu sự phỉ báng này được thực hiện ngoại tuyến thì sẽ chỉ phải chịu hình phạt nhẹ hơn nhiều). Tương tự, ở Philippine, trong Đạo luật phòng chống tội phạm mạng cũng quy định những hành vi sử dụng mạng xã hội để làm ảnh hưởng tới danh tự của một người khác thì sẽ bị phạt nặng hơn so với việc thực hiện hành vi đó ở bên ngoài xã hội (ngoại tuyến).[2] Lý do có sự khác biệt về hình phạt với cùng một hành vi nhưng được thực hiện trong hai môi trường đơn giản là bởi các thông điệp phỉ báng, thù ghét được phổ biến trên mạng xã hội có tác động tiêu cực nghiêm trọng hơn rất nhiều so với việc thực hiện ở môi trường bên ngoài.

Luật tiết lộ danh tính: Một phương thức khác mà một số quốc gia đã dùng để giám sát quyền tự do biểu đạt trên mạng đó là yêu cầu người dùng Internet phải công bố danh tính khi tham gia các hoạt động trực tuyến. Ví dụ, ở Ấn Độ, trong thời điểm tỉ lệ người sử dụng máy tính cá nhân còn thấp, bản Hướng dẫn Công nghệ Thông tin yêu cầu các chủ sở hữu các tiệm cà phê Internet phải lưu giữ thông tin của khách hàng khi sử dụng dịch vụ tại đây nếu không sẽ phải chịu phạt. Ở một số quốc gia khác, chính quyền cấm người dùng bình luận hoặc đăng tải những bài viết dưới dạng ẩn danh. Người dùng phải thực hiện xác minh bản thân khi truy cập vào một số trang web hoặc trong khi thực hiện bình luận trên các trang thông tin hay blog. Cụ thể như ở Trung Quốc, người dùng phải đăng ký tên thật khi mở tài khoản và các nhà cung cấp dịch vụ mạng (ISPs) được quyền truy cập vào thông tin danh tính thực của người dùng khi cần thiết. Vì vậy, người dùng mạng xã hội ở Trung Quốc hầu như đều tránh đề cập đến các bài viết hoặc bình luận mang tính tranh cãi trên Internet, bởi họ biết chính quyền có thể theo dõi được những hoạt động của họ.

Xét một cách khách quan, những biện pháp nêu trên có tác dụng tích cực là ngăn chặn những hành vi lạm dụng tự do ngôn luận trên mạng, nhưng đồng thời trong một số trường hợp, những biện pháp này tỏ ra mâu thuẫn tới nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và thực hiện quyền tự do biểu đạt theo luật nhân quyền quốc tế. Về vấn đề này, trong Bình luận chung số 34, Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc đã cho rằng, tất cả những quy định pháp luật nhằm chống phỉ báng trên Internet đều phải được thực hiện trong khuôn khổ và phải tương thích với các quy định trong Điều 19 ICCPR, đặc biệt là các quy định về điều kiện áp dụng giới hạn pháp lí với tự do biểu đạt, để đảm bảo những giới hạn như vậy “không kiềm chế sự tự do biểu đạt[3]. Ủy ban Nhân quyền cũng cho rằng, trong vấn đề này, “các chế tài hình sự chỉ nên áp dụng trong những trường hợp rất nghiêm trọng, và kết án tù không phải là hình phạt phù hợp”,[4]Các quốc gia thành viên phải thận trọng trong việc hình sự hóa tội phỉ báng.”[5]

Cũng để giám sát những hành vi vượt quá giới hạn của tự do ngôn luận trên Internet, các quốc gia thường gây áp lực đối với các nhà cung cấp dịch vụ mạng. Tuy vậy, các quốc gia không thể ủy thác toàn bộ việc này cho các nhà cung cấp mạng (hầu hết là các chủ thể tư nhân), bởi trước hết là theo luật nhân quyền quốc tế, “các quốc gia có nhiệm vụ phải hỗ trợ, tôn trọng sự tự do và quyền con người của tất cả các cá nhân đang sống trong vùng lãnh thổ thuộc thẩm quyền quản lý của họ.”[6] Thêm vào đó, việc uỷ thác toàn quyền giám sát nội dung thông tin cho các nhà cung cấp dịch vụ mạng có thể dẫn tới những hình khác của vi phạm nhân quyền, ví dụ như vi phạm quyền riêng tư của người sử dụng dịch vụ do các nhà cung cấp dịch vụ mạng gây ra. Vì vậy, bên cạnh việc yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ mạng nêu ra các quy định ràng buộc hợp lý với người dùng, các quốc gia còn có nhiệm vụ đảm bảo rằng những nhà cung cấp dịch vụ mạng phải tuân theo những tiêu chuẩn về quyền con người trong hoạt động kinh doanh. Ví dụ, ở Thái Lan, nhà nước đã ban hành những luật lệ liên quan đến các nhà cung cấp dịch vụ mạng để đảm bảo rằng nội dung những thông tin được họ truyền tải không bị phản cảm. Còn ở Singapore, chính quyền đã ban hành Quy tắc Thực hành Internet (the Internet Code of Practice) trong đó yêu cầu những nhà cung cấp dịch vụ mạng hạn chế quyền của người dùng được truy cập những tài liệu cấm và nêu ra những bình luận chống lại “trật tự công cộng, sự hài hòa của quốc gia…”

PGS.TS Vũ Công Giao

(Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội)

 

[1] Frank La Rue. 10 August 2011.Tài liệu đã dẫn.  

[2] Đạo luật phòng chống tội phạm mạng Philippine, tại http://www.officialgazette.gov.ph/2012/09/12/republic-act-no-10175/

[3] Ủy ban Nhân quyền – Bình luận chung số 34, Hướng dẫn về khái niệm tự do quan điểm và biểu đạt trong thực tiễn cho các quốc gia thành viên, tại http://bangkok.ohchr.org/programme/documents/general-comment-34.aspx

[4] Ủy ban Nhân quyền – Bình luận chung số 34, tài liệu đã dẫn

[5] Ủy ban Nhân quyền, vụ Alexander Adonis v The Philippines, tại http://hrlibrary.umn.edu/undocs/1815-2008.html

[6] UDHR, phần mở đầu.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *