Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác tin bài của nhanquyenvn.org, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "nhanquyenvn.org". Tìm kiếm ngay
10046

Việt Nam hay sự ngạo mạn của quyền lực đánh vào tận gốc rễ

Bài viết cùng tên của Rainer Werning, đăng ngày 30 tháng 4 năm 2025, kỷ niệm 50 năm sự kiện Sài Gòn sụp đổ (1975), nhấn mạnh thất bại lịch sử của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam như một biểu tượng cho “sự kiêu ngạo của quyền lực”. Thông điệp chính là sự tự tin thái quá vào sức mạnh quân sự và tham vọng bá quyền của Mỹ đã dẫn đến thảm họa, gây ra cái chết của hơn ba triệu người và tàn phá Việt Nam, Lào, Campuchia. Tác giả phê phán các chiến thuật tàn bạo như sử dụng chất độc da cam, bom napalm, và chiến tranh hóa học, cùng với sự thao túng thông tin (như sự kiện Vịnh Bắc Bộ) để biện minh cho can thiệp. Bài viết coi chiến thắng của Mặt trận Giải phóng Dân tộc là biểu tượng của cuộc đấu tranh chính nghĩa, truyền cảm hứng cho các phong trào giải phóng toàn cầu. Tác giả cảnh báo rằng Mỹ không rút ra bài học, tiếp tục các cuộc chiến xâm lược ở Nam Tư, Afghanistan, Iraq, Libya, Yemen, phản ánh sự kiêu ngạo không thay đổi. Điểm đáng tiếc là tác giả tiếp cận thông tin một chiều từ một số thành phần phản động, chống phá đất nước ở Đức như Phạm Thị Hoài đưa tin thiếu khách quan về bối cảnh đất nước Việt Nam sau giành độc lập, thống nhất đất nước, bị bao vây, cấm vận tứ phía cũng như cái nhìn thiếu thiện cảm với nỗ lực của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đưa đất nước thoát khỏi khó khăn, vươn lên phát triển như hiện nay. Tuy nhiên, để đảm bảo khách quan, xin chuyển thể tới độc giả:

 

Điều này chưa bao giờ xảy ra trước đây trong lịch sử gần đây. Năm mươi năm trước, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, một siêu cường đã hoảng sợ: đoàn ngoại giao và đoàn tùy tùng người Việt đã chiến đấu trên nóc tòa đại sứ Hoa Kỳ tại thủ đô Sài Gòn của Nam Việt Nam để giành những ghế trực thăng cuối cùng đưa họ tới tự do. Mặc dù cuộc di tản của Chú Sam bị sỉ nhục diễn ra vội vã, nhưng các đơn vị chiến thắng của Mặt trận Giải phóng Dân tộc (FNL) đã tiến vào thành phố, sau này được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh, với cùng kỷ luật. “Sự kiêu ngạo của quyền lực” đã phải chịu một thất bại nghiêm trọng. J. William Fulbright là người sáng tạo ra thuật ngữ này khi ông là chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ vào thời kỳ đỉnh điểm của Chiến tranh Việt Nam vào giữa những năm 1960. Đánh giá của chuyên gia Đông Nam Á Rainer Werning .

Nếu người Mỹ vĩ đại lắng nghe đồng minh NATO nhỏ bé của họ là Pháp và nghiên cứu cẩn thận thảm họa của nước này ở Điện Biên Phủ, nơi mà cường quốc thực dân trước đây đã phải chịu thất bại cay đắng vào năm 1954 trong cuộc chiến chống lại lực lượng kháng chiến Việt Nam do Hồ Chí Minh và nhà chiến lược tài ba của ông, Đại tướng Võ Nguyên Giáp lãnh đạo, thì bản thân họ hẳn đã tránh được đau khổ to lớn. Cuộc chiến cuối cùng đã cướp đi sinh mạng của hơn ba triệu người – hai triệu thường dân Việt Nam, hơn một triệu binh lính Bắc Việt, hơn 200.000 binh lính Nam Việt Nam và gần 41.000 lính Mỹ thiệt mạng trong chiến đấu. Chưa kể đến sự tàn phá toàn bộ các khu vực ở Việt Nam và các nước láng giềng là Campuchia và Lào! Và tất cả những điều này diễn ra bất chấp thực tế là Tướng Không quân Hoa Kỳ Curtis E. LeMay đã từng tuyên bố rằng “sẽ ném bom đưa Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá”. Chỉ riêng trong ba năm đầu của cuộc chiến, Không quân Hoa Kỳ đã thả 2,5 triệu tấn bom xuống đất nước này – nhiều hơn cả tổng số bom ném trong toàn bộ Thế chiến thứ hai. Đến năm 1968, 40 phần trăm thị trấn ở Bắc Việt Nam đã bị phá hủy, nhưng vẫn chưa thấy dấu hiệu chiến thắng của người Mỹ.

“ Chúng tôi đã sai, sai một cách khủng khiếp”

Robert S. McNamara, Bộ trưởng Chiến tranh Hoa Kỳ từ năm 1960 đến năm 1968, sau này là Chủ tịch Ngân hàng Thế giới và cùng với các Tổng thống Hoa Kỳ lúc bấy giờ là Lyndon B. Johnson và Richard M. Nixon, cũng như cựu Cố vấn An ninh và sau này là Ngoại trưởng Henry Kissinger, một trong những người chính chịu trách nhiệm cho ngày tận thế này, sau này đã phải cay đắng tuyên bố trong hồi ký của mình:

” Mọi người có thể sai. Tôi thừa nhận với sự thẳng thắn đau đớn và trái tim nặng trĩu rằng điểm chung này, liên quan đến Việt Nam, cũng áp dụng cho tôi và giới lãnh đạo Hoa Kỳ trong thế hệ của tôi. Chúng tôi đã sai, sai một cách khủng khiếp.”

Một cái nhìn sâu sắc đáng kinh ngạc. Cuối cùng, thật đáng buồn và đáng lo ngại khi điều này không gây ra hậu quả gì khi xét đến các cuộc chiến tranh xâm lược tiếp theo của đế quốc Hoa Kỳ chống lại Nam Tư, Afghanistan, Iraq, Libya và Yemen!

“ Xây dựng một thế giới nhân văn hơn”

Những dòng này được nhà văn Phạm Thị Hoài, sinh năm 1960 tại Hà Nội, viết trong lời tựa cho cuốn sách “Việt Nam – Giờ mới trên 100 chiếc đồng hồ”, xuất bản năm 1997.

” Sự sụp đổ của Sài Gòn là điều hiển nhiên, chiến tranh là sự khác biệt, và tôi là con gái của một dân tộc được chọn đã chịu đựng và chiến thắng để xây dựng một thế giới nhân đạo hơn. Niềm tự hào đó chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, nhưng chúng tôi tin vào sự đảm bảo trọn đời. Sau ba tháng, các trại cải tạo đã dấy lên những nghi ngờ đầu tiên. Sau ba năm, sự thất vọng chất đống như những viên sỏi trong bát cơm hàng ngày. Sau năm năm, một lượng lớn niềm tự hào dân tộc đã chìm xuống biển cùng với hàng trăm nghìn người vượt biên. Chiến thắng trong chiến tranh đã xóa bỏ mọi thứ hết lần này đến lần khác. (…) Ngày nay, thế giới có lẽ đã trở nên nhân đạo hơn ở những nơi khác—những người được chọn của tôi vẫn tiếp tục tiến bước, cô đơn và không lay chuyển, trong nghèo đói, tham nhũng và áp bức.”

“Tạo ra hai, ba, nhiều Việt Nam hơn nữa!” Bác sĩ và là người bạn đồng hành lâu năm của Fidel Castro, Ernesto Che Guevara, đã giới thiệu cuốn sách này như một cuốn cẩm nang cho phong trào chống chủ nghĩa đế quốc đang phát triển ở Ba lục địa trước khi chính ông qua đời tại rừng rậm Bolivia vào mùa hè năm 1967. Trong khi đó, ở hầu hết các thành phố lớn phương Tây, những người phản đối sự xâm lược của Hoa Kỳ ở Đông Dương tức giận hô vang khẩu hiệu chiến đấu “Hồ-Hồ-Hồ-Chí-Minh!” Chủ tịch Hồ Chí Minh của miền Bắc Việt Nam được coi là biểu tượng của cuộc đấu tranh giải phóng chống lại cuộc chiến tranh tàn khốc của những người tự xưng là người bảo vệ tự do và dân chủ . Chính sự ngạo mạn về quyền lực, sự đạo đức giả chết người, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc trắng trợn và những cấu trúc mong manh nhằm bảo vệ danh dự của phương Tây đã ngày càng gây ra sự phản đối và kháng cự trong giới trẻ và sinh viên trên toàn thế giới vào những năm 1960 và 1970. Việt Nam và – khi chiến tranh lan sang các nước láng giềng – sau đó là Campuchia và Lào trong suốt một thế hệ đã trở thành ẩn dụ cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của David chống lại Goliath.

Sự leo thang quân sự đã được quyết định trong nhiệm kỳ tổng thống của John F. Kennedy vào đầu những năm 1960 đã diễn ra nhanh chóng dưới thời những người kế nhiệm ông, cho đến thời kỳ đỉnh điểm của cuộc chiến, có hơn nửa triệu lính Mỹ được đồn trú chỉ riêng tại Việt Nam. Ngoài ra, còn có hàng chục ngàn người tham gia vào “cuộc chiến bí mật” ở Lào và Campuchia và hòa nhập vào nền kinh tế chiến tranh tại các căn cứ tiếp tế của Thái Lan và Philippines. Trên chiến trường Đông Dương, sự phản bội và đồi bại được dựng lên lúc bấy giờ cũng được đưa vào thực tiễn: từ chiến tranh vi khuẩn đến chiến tranh khí tượng. Rừng bị chặt phá một cách có hệ thống, đê bị sập do mưa nhân tạo và việc phun rải chất độc màu da cam trên diện rộng vẫn gây ra tình trạng sảy thai và dị tật bẩm sinh cho đến ngày nay. Trong chiến tranh, Không quân Hoa Kỳ và quân đồng minh Nam Việt Nam đã rải hơn 70 triệu lít thuốc diệt cỏ, chủ yếu là Chất độc màu da cam khét tiếng, lên hơn một phần mười diện tích đất. Chất cực độc chứa dioxin này không chỉ làm rụng lá cây, phá hủy rừng ngập mặn và khiến con người bị bệnh mà còn gây ung thư, làm hỏng gen và phá hủy môi trường sống của hàng triệu người.

Bài học từ một “cuộc chiến truyền hình”

Việt Nam là “cuộc chiến tranh truyền hình” đầu tiên, sự tàn khốc của nó được chiếu hàng ngày trên màn ảnh khắp thế giới. Điều này gây ra sự ghê tởm và phản đối, ngày càng gây ra các vấn đề về tính hợp pháp cho các nhà chiến lược quân sự ở Washington. Hình ảnh trực quan về chiến tranh khiến cho số lượng những người phản đối chiến tranh tăng lên đến mức bài học được rút ra từ đây: từ đó trở đi, chiến tranh chỉ nên được trình bày dưới dạng lâm sàng và vệ sinh, như những can thiệp phẫu thuật chính xác: những hình ảnh quen thuộc với chúng ta từ Chiến tranh vùng Vịnh lần trước và liên tục được trình bày với chúng ta trong cuộc xâm lược của NATO chống lại Nam Tư và trong quá trình “chiến dịch chống khủng bố” ở Afghanistan.

Suy cho cùng, Việt Nam là ngọn hải đăng của hy vọng tuyệt vời: nếu một dân tộc nhỏ bé bị áp bức thực sự đứng lên chống lại cỗ máy chiến tranh hùng mạnh nhất của chủ nghĩa đế quốc, và cuối cùng thậm chí đánh bại được nó, điều này sẽ trở thành ngọn hải đăng cho tất cả những người bị áp bức và bóc lột và sẽ mở ra một phần thực tế đáng kể cho công cuộc giải phóng. Kỳ vọng này đã truyền cảm hứng và thúc đẩy nhiều người trên khắp thế giới đấu tranh trong nhiều năm.

Tuy nhiên, bất kỳ ai tin rằng Việt Nam sẽ chuyển mình thành một xã hội xã hội chủ nghĩa sau mùa xuân giải phóng đó đều dần dần phải từ bỏ quan niệm này. Như thường lệ trong lịch sử, việc giành được quyền lực nhà nước không đảm bảo sẽ có sự thay đổi về mặt cấu trúc trong xã hội, chính trị và kinh tế. Khi các phong trào giải phóng lên nắm quyền, họ đột nhiên thấy mình phải đối mặt với vấn đề khó khăn hơn nhiều là thực thi quyền lực vì lợi ích của những người được cho là hưởng lợi, cụ thể là người dân. Ngay cả Việt Nam anh hùng, dù có gây đau thương cho nhiều người ngưỡng mộ, cũng không phải là ngoại lệ.

Cùng lúc đó, ví dụ, các phong trào giải phóng thắng lợi ở Angola và Mozambique đang bị xé nát bởi những cuộc xung đột đẫm máu, trong khi ở Việt Nam, Đảng Cộng sản (ĐCSVN), tự coi mình là người bảo vệ giải phóng và chủ nghĩa xã hội, đang chuẩn bị chấm dứt chủ nghĩa tư bản đang hoành hành ở miền Nam vốn đã nằm dưới sự bảo trợ của Hoa Kỳ trong nhiều năm. Không ai được đối xử nhẹ nhàng với những người vì nhiều lý do khác nhau đã từ chối tự nguyện nói lời tạm biệt với quá khứ và không muốn chấp nhận rằng miền Nam sẽ được định hình lại theo hình ảnh của miền Bắc trong tương lai gần. Ngay từ năm 1976, đất nước thống nhất đã được đổi tên thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam .

Việt Nam: Biên niên sử tóm tắt (do Rainer Werning biên soạn):

1945: Sau chiến thắng trước quân xâm lược Nhật Bản, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (DRV) được tuyên bố thành lập tại thuộc địa Việt Nam của Pháp.

1946: Pháp lại xâm lược đất nước và chiếm đóng phần phía Nam.

1954: Lực lượng viễn chinh Pháp bị đánh bại ở Điện Biên Phủ. Hiệp định Geneva về Đông Dương chia đôi đất nước tại vĩ tuyến 17 “cho đến khi có cuộc bầu cử toàn quốc của Việt Nam”.

1955/1956: Hoa Kỳ ngăn cản cuộc bầu cử; bổ nhiệm Thống đốc Ngô Đình Diệm ở Sài Gòn, người tuyên bố “Việt Nam Cộng hòa” ở miền Nam.

1960: Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (FNL) được thành lập.

1962: Hoa Kỳ can thiệp vào cuộc chiến. Sử dụng khí độc, bom bi và bom napalm. Lực lượng FNL giải phóng một nửa đất nước.

1964: Sau hành động khiêu khích tự phát ở Vịnh Bắc Bộ, Hoa Kỳ mở rộng chiến tranh sang Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

1973: Hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh buộc Hoa Kỳ phải rút quân và Sài Gòn phải tôn trọng các khu vực được FNL giải phóng.

Đọc thêm

    • Marc Frey (2006): Lịch sử chiến tranh Việt Nam: Bi kịch ở Châu Á và sự kết thúc của Giấc mơ Mỹ . Munich
    • Bernd Greiner (2007): Chiến tranh không có mặt trận. Hoa Kỳ ở Việt Nam. Hamburg
    • David Halberstam (1965): Việt Nam hay Rừng rậm đã bị phá trụi lá? Reinbek gần Hamburg
    • Stanley Karnow (1997): Việt Nam. Một Lịch sử. New York
    • Gabriel Kolko (1994): Giải phẫu một cuộc chiến tranh: Việt Nam, Hoa Kỳ và trải nghiệm lịch sử hiện đại. New York
    • Robert S. McNamara và Brian VanDeMark (1996): Việt Nam: Chấn thương của một cường quốc thế giới. (ấn bản lần 2) Hamburg
    • Walter Skrobanek (2008): Sau khi giải phóng: Để bạn biết rằng cuộc sống vẫn tiếp diễn. Nhật ký Việt Nam 1975. Unkel/Bad Honnef
    • Nick Turse (2013): Giết bất cứ thứ gì chuyển động. Cuộc chiến thực sự của Mỹ ở Việt Nam. New York

 

 

Bài viết cùng chủ đề:

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *