Theo luật nhân quyền quốc tế, tự do ngôn luận không phải là một quyền tuyệt đối. Quyền này có thể bị hạn chế bởi các nhà nước, song việc hạn chế phải tuân thủ những điều kiện chặt chẽ để tránh sự lạm dụng.
1.Giới hạn và điều kiện giới hạn quyền tự do ngôn luận trên Internet
Quyền tự do ngôn luận (hay tự do biểu đạt) được ghi nhận trong Điều 19 của Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền (UDHR, 1948[1]) và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR, 1966)[2]. Về quyền này, UDHR nêu rõ: Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến; kể cả tự do bảo lưu quan điểm mà không bị can thiệp; cũng như có quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, truyền bá các ý tưởng và thông tin qua bất kỳ phương tiện truyền thông nào mà không bị giới hạn về biên giới[3]. Tuyên ngôn Nhân quyền ASEAN của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á cũng khẳng định: “Mỗi người đều có quyền tự do biểu đạt và bày tỏ quan điểm, bao gồm quyền giữ quan điểm mà không bị cản trở và quyền tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thông tin, thông qua hình thức truyền miệng, hay bằng văn bản hoặc thông qua mọi hình thức biểu đạt mà mỗi người có thể lựa chọn”.[4]
Theo quy định nêu trên của UDHR, tự do ngôn luận bao gồm tự do bày tỏ ý kiến, phổ biến thông tin và truy cập vào thông tin trên không gian mạng, vì Internet cũng được xem là một kênh (phương tiện) truyền thông.
Theo luật nhân quyền quốc tế, tự do ngôn luận không phải là một quyền tuyệt đối. Quyền này có thể bị hạn chế bởi các nhà nước, song việc hạn chế phải tuân thủ những điều kiện chặt chẽ để tránh sự lạm dụng. Các quốc gia có quyền tự quyết định những vấn đề liên quan đến những hạn chế mà quốc gia đó áp dụng đối với quyền tự do biểu đạt (bao gồm việc xác định nội dung nào bị cấm xuất hiện trên Internet); tuy nhiên, những hạn chế đó phải tương thích với những quy định quốc tế về quyền tự do biểu đạt theo các nguyên tắc về tính hợp pháp, tính cần thiết và tính thích hợp.
Cụ thể, về vấn đề trên, ICCPR đã nêu ra ba yêu cầu mà có thể được sử dụng để xác định xem một nhà nước có đi quá giới hạn trong việc hạn chế tự do ngôn luận hay không:[5]
- Thứ nhất, “bất kì sự hạn chế nào đều phải được luật hóa đầy đủ và chính xác để cho phép một cá nhân có thể tự điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp khi thực hiện quyền tự do ngôn luận.”
- Thứ hai, “mọi hạn chế phải được quy định dựa trên những căn cứ pháp lý được ghi nhận tại Khoản 3 Điều 19 ICCPR, cụ thể là để: (i) tôn trọng quyền và danh dự của người khác; hoặc (ii) bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe cộng đồng và đạo đức xã hội.”
- Thứ ba, “bất kỳ hạn chế nào cũng phải chứng minh được tính cấp thiết và sự phù hợp, hoặc chứng mình được mục đích của sự hạn chế là nhằm đạt được những mục tiêu nêu trên.” Ở đây, cần phân biệt tính cấp thiết và sự phù hợp, trong đó tính cấp thiết có nghĩa là sự hạn chế phải được thực hiện trong một giới hạn thời gian nhất định để đạt được mục đích đề ra là ngăn ngừa tác động nguy hại của sự biểu đạt, còn sự phù hợp có nghĩa là khi nêu ra những hạn chế, cần phải chứng minh được hạn chế đó là cần thiết vì sự biểu đạt đó thực sự có thể gây nguy hại.
Trong thực tế, các yêu cầu nêu trên thường không được thực hiện đầy đủ ở nhiều quốc gia. Ví dụ, trong vòng 5 năm qua ở Thái Lan, nhà nước đã chặn hơn 100.000 trang web vì lý do chống lại Hoàng gia, căn cứ vào quy định trong Đạo luật Tội phạm liên quan đến máy tính (CCA) của nước này mà trong đó cấm những bình luận có nội dung liên quan đến chế độ quân chủ Thái Lan. Tuy nhiên, quy định đó không đủ rõ ràng và cụ thể nên nhiều người dùng Internet không biết rằng liệu những bình luận của mình có bị cấm hay không. Bối cảnh tương tự cũng xảy ra ở nhiều quốc gia khác, trong những vấn đề bị coi là “cấm kỵ” khác với tự do ngôn luận. Chính vì vậy, Uỷ ban Nhân quyền – cơ quan được thành lập để giám sát việc thực hiện ICCPR – đã nỗ lực cụ thể hoá yêu cầu này trong Bình luận chung số 34, theo đó khi một quốc gia viện dẫn một yếu tố làm căn cứ pháp lý để hạn chế sự tự do biểu đạt thì quốc gia đó phải chứng minh được rằng nội dung biểu đạt bị cấm có thể gây ra hậu quả với những giá trị được bảo vệ trong ICCPR, cụ thể là: (1) nội dung mang tính tuyên truyền kích động chiến tranh và (2) nội dung tạo nên “thù hận về dân tộc, chủng tộc hay tôn giáo” nhằm kích động “phân biệt đối xử, gây nên bạo lực” nhằm vào một nhóm người cụ thể.[6]
Bên cạnh đó, Báo cáo của Báo cáo viên đặc biệt của Liên Hợp Quốc về Thúc đẩy và Bảo vệ quyền tự do ý kiến và biểu đạt Frank Larue năm 2011 nêu rằng, ngoài những tuyên truyền kích động chiến tranh và ngôn ngữ mang tính chất thù địch liệt kê trong Điều 20 ICCPR thì còn có ba loại biểu hiện chung về biểu đạt mà quốc gia bắt buộc phải cấm theo luật quốc tế đó là: (1) Ấu dâm, (2) Kích động trực tiếp và công khai tội phạm diệt chủng và (3) Kích động khủng bố[7]. Tuy nhiên, Báo cáo viên đặc biệt cũng nhấn mạnh đến một số hình thức biểu đạt không bao giờ bị hạn chế, bao gồm: “thảo luận về các chính sách của chính quyền và tranh luận về chính trị; báo cáo về quyền con người; các hoạt động và tình trạng tham nhũng trong chính quyền; tham gia vào các chiến dịch bầu cử, các cuộc biểu tình hòa bình và dân chủ; thể hiện quan điểm về tôn giáo, kể cả với những người thuộc các nhóm người thiểu số hoặc dễ bị tổn thương”.”[8]
Liên quan trực tiếp đến tự do ngôn luận trên Internet, vào năm 2012, Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc đã thông qua một Nghị quyết quan trọng, trong đó khẳng định rằng: “Mọi người đều được bảo vệ như nhau dù là tham gia hay không tham gia vào không gian mạng”[9]. Nghị quyết này được ban hành dựa trên kết quả của hai bản báo cáo năm 2011 về “quyền tự do biểu đạt ý kiến và được thực hiện thông qua Internet” của Báo cáo viên đặc biệt của Liên Hợp Quốc (Frank La Rue) về Xúc tiến và Bảo vệ Quyền tự do ngôn luận và biểu đạt. Trong báo cáo thứ nhất, Frank La Rue đã nêu bật lên một thực tế là tự do ngôn luận có thể phát triển, đồng thời cũng có thể bị vi phạm thông qua Internet[10]. Trong báo cáo thứ hai, La Rue cảnh báo về “các hạn chế gia tăng trên Internet thông qua việc sử dụng các công nghệ ngày càng tinh vi để chặn nội dung, theo dõi và nhận diện các nhà hoạt động và phê bình, hình sự hóa hành vi biểu đạt và áp dụng pháp luật hạn chế các biện pháp như vậy”[11]. Tiếp theo đó, năm 2013, ngay trước khi Snowden tiết lộ cho cả thế giới biết về chương trình đầy tai tiếng của Chính phủ Mỹ nhằm giám sát người dùng các công cụ và mạng xã hội, La Rue công bố thêm một báo cáo nữa liên quan đến tác động của các biện pháp mà các nhà nước sử dụng để giám sát tự do ngôn luận trên mạng với quyền về sự riêng tư của công dân[12]. Trong báo cáo này, La Rue đã đề cập đến vai trò then chốt của khu vực tư nhân trong việc tiếp tay cho các nhà nước giám sát tự do ngôn luận trên Internet, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của truyền thông “riêng tư, an toàn và vô danh”[13]. Quan điểm này của La Rue sau đó được củng cố thêm bởi nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua năm 2013 về quyền riêng tư trong kỷ nguyên số. Nghị quyết kêu gọi các quốc gia tôn trọng quyền riêng tư trong truyền thông kỹ thuật số và thực hiện các biện pháp ngăn chặn vi phạm, bao gồm việc rà soát, sửa đổi các quy định pháp luật hiện hành và thiết lập cơ chế giám sát với những chủ thể có liên quan[14].
Cũng theo Báo cáo viên đặc biệt của Liên Hợp Quốc La Rue, với tính chất là một quyền không tuyệt đối, tự do ngôn luận, bao gồm tự do ngôn luận trên không gian mạng, có thể bị hạn chế bởi các nhà nước, song những hạn chế đó chỉ được xem là phù hợp với các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế khi đáp ứng ba điều kiện đó là[15]:
- Hạn chế phải dựa trên quy tắc, được quy định bởi luật pháp và được thực hiện một cách minh bạch và có thể dự đoán được;
- Hạn chế phải là cần thiết và cân đối, sử dụng các phương tiện ít hạn chế nhất để đạt được mục tiêu;
- Hạn chế phải phù hợp với các mục đích được trích dẫn trong ICCPR, đó là khi cần thiết để bảo vệ quyền hoặc uy tín của người khác, an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức cộng đồng.
Cụ thể hơn, trong Bình luận chung số 34, Ủy ban Nhân quyền nêu rằng: “Bất kì biện pháp hạn chế nào muốn được áp dụng trên các trang web, blog hoặc xuất hiện trên bất kì phương tiện công nghệ nào (hệ thống hỗ trợ giao tiếp, công cụ tìm kiếm,…) đều phải tương thích với các quy định trong Đoạn 3 Điều 19 ICCPR. Các biện pháp giới hạn nói chung phải có nội dung cụ thể, phải có một lệnh cấm chung áp dụng trong trường hợp các trang web hoặc một số hệ thống không có nội dung tương thích với Đoạn 3. Hành động cấm đối với những trang web hoặc hệ thống phổ biến thông tin đăng tải những nội dung có thể quan trọng đối với chính phủ hoặc hệ thống chính trị xã hội cũng là hành động không tương thích với những quy định được ghi trong Đoạn 3.”[16]
Sở dĩ các cơ quan nhân quyền Liên hợp quốc nêu ra những quy định như trên là do lo ngại các quốc gia có thể lạm dụng quy định về giới hạn của tự do ngôn luận trên Internet. Đây là lo ngại chung của nhiều tổ chức quốc tế khác. Ví dụ, Tổ chức Văn hoá, Giáo dục của Liên Hợp Quốc (UNESCO) đã nhấn mạnh Internet là một nguồn thiết yếu để thực hiện quyền tự do ngôn luận của người dân và kêu gọi các quốc gia cân nhắc cẩn thận các yếu tố có thể sử dụng để hạn chế tự do biểu đạt trên mạng. Một báo cáo năm 2011 của UNESCO (có tên là Tự do kết nối – Tự do ngôn luận: Sự thay đổi pháp lý và quy định về sinh thái định hình Internet) cung cấp tổng quan về bối cảnh pháp lý và quy định trong đó các quốc gia tìm cách cân bằng trách nhiệm bảo vệ quyền tự do ngôn luận với các mục tiêu của Nhà nước về phát triển kinh tế, thương mại và công nghiệp[17]. Khảo sát toàn cầu năm 2012 về Bảo mật và Tự do ngôn luận của UNESCO chỉ ra rằng những hạn chế trong việc bảo vệ quyền riêng tư trên mạng Internet có tác động tiêu cực đến quyền tự do ngôn luận[18]. Báo cáo năm 2014 của UNESCO có tiêu đề là Các xu hướng về Tự do ngôn luận và Phát triển Truyền thông cũng nêu rằng, ngoài việc vi phạm quyền riêng tư, việc lo sợ bị trừng phạt cũng dẫn đến tự kiểm duyệt bởi chính người dùng cũng như của các nhà cung cấp dịch vụ mạng[19].
- Những biện pháp giám sát quyền tự do ngôn luận trên Internet
Về việc giám sát tự do ngôn luận trên Internet, Báo cáo viên đặc biệt Frank Larue cũng nhận xét trong báo cáo của ông đó là, “phương pháp phổ biến nhất mà các quốc gia đang sử dụng để hạn chế các nội dung biểu đạt bị cấm trên Internet là thông qua việc chặn các nội dung đó.”[20]
Trong thực tế, để giám sát những hành vi vượt quá giới hạn của tự do ngôn luận trên không gian mạng, các quốc gia đang sử dụng một hoặc đồng thời các biện pháp như: kiểm duyệt trước (prior censorship); hình sự hóa các tuyên bố trực tuyến bị xem là vi phạm pháp luật (criminalization of online-specific speech); ban hành quy định pháp luật bắt buộc người dùng mạng xã hội phải tiết lộ danh tính (identity disclosure laws).
Kiểm duyệt trước: Biện pháp kiểm duyệt trước được một số quốc gia áp dụng để giám sát những thông điệp có liên quan đến chính trị, tôn giáo và xã hội được chuyển tải trên Internet. Ví dụ như ở Thổ Nhĩ Kì, người dùng Internet bị cấm có bất kì hành động chỉ trích nào liên quan đến Ataturk – người sáng lập đất nước Thổ Nhĩ Kì hiện đại; hay như ở Thái Lan, chính phủ cấm người dùng đề cập đến sự nổi dậy đòi ly khai ở khu vực miền nam nước này và tới vị trí, vai trò của Hoàng gia; còn ở Malaysia, người dùng Internet sẽ bị phạt nếu có thông điệp “gây bất lợi cho dân chủ nghị viện.”
Hình sự hóa các tuyên bố trực tuyến: Một số quốc gia đã hình sự hóa một số hình thức tuyên bố trực tuyến liên quan tới chính trị, tôn giáo và xã hội (người dùng có thể không bị phạt khi đưa ra những tuyên bố này trong trường hợp ngoại tuyến). Ví dụ, ở Indonesia, hành vi phỉ báng người khác trên mạng (electronic defamation, bằng lời hay bằng văn bản) có thể bị phạt tù đến 6 năm hoặc phải chịu phạt một khoản tiền bồi thường lớn (trong khi nếu sự phỉ báng này được thực hiện ngoại tuyến thì sẽ chỉ phải chịu hình phạt nhẹ hơn nhiều). Tương tự, ở Philippine, trong Đạo luật phòng chống tội phạm mạng cũng quy định những hành vi sử dụng mạng xã hội để làm ảnh hưởng tới danh tự của một người khác thì sẽ bị phạt nặng hơn so với việc thực hiện hành vi đó ở bên ngoài xã hội (ngoại tuyến).[21] Lý do có sự khác biệt về hình phạt với cùng một hành vi nhưng được thực hiện trong hai môi trường đơn giản là bởi các thông điệp phỉ báng, thù ghét được phổ biến trên mạng xã hội có tác động tiêu cực nghiêm trọng hơn rất nhiều so với việc thực hiện ở môi trường bên ngoài.
Luật tiết lộ danh tính: Một phương thức khác mà một số quốc gia đã dùng để giám sát quyền tự do biểu đạt trên mạng đó là yêu cầu người dùng Internet phải công bố danh tính khi tham gia các hoạt động trực tuyến. Ví dụ, ở Ấn Độ, trong thời điểm tỉ lệ người sử dụng máy tính cá nhân còn thấp, bản Hướng dẫn Công nghệ Thông tin yêu cầu các chủ sở hữu các tiệm cà phê Internet phải lưu giữ thông tin của khách hàng khi sử dụng dịch vụ tại đây nếu không sẽ phải chịu phạt. Ở một số quốc gia khác, chính quyền cấm người dùng bình luận hoặc đăng tải những bài viết dưới dạng ẩn danh. Người dùng phải thực hiện xác minh bản thân khi truy cập vào một số trang web hoặc trong khi thực hiện bình luận trên các trang thông tin hay blog. Cụ thể như ở Trung Quốc, người dùng phải đăng ký tên thật khi mở tài khoản và các nhà cung cấp dịch vụ mạng (ISPs) được quyền truy cập vào thông tin danh tính thực của người dùng khi cần thiết. Vì vậy, người dùng mạng xã hội ở Trung Quốc hầu như đều tránh đề cập đến các bài viết hoặc bình luận mang tính tranh cãi trên Internet, bởi họ biết chính quyền có thể theo dõi được những hoạt động của họ.
Xét một cách khách quan, những biện pháp nêu trên có tác dụng tích cực là ngăn chặn những hành vi lạm dụng tự do ngôn luận trên mạng, nhưng đồng thời trong một số trường hợp, những biện pháp này tỏ ra mâu thuẫn tới nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và thực hiện quyền tự do biểu đạt theo luật nhân quyền quốc tế. Về vấn đề này, trong Bình luận chung số 34, Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc đã cho rằng, tất cả những quy định pháp luật nhằm chống phỉ báng trên Internet đều phải được thực hiện trong khuôn khổ và phải tương thích với các quy định trong Điều 19 ICCPR, đặc biệt là các quy định về điều kiện áp dụng giới hạn pháp lí với tự do biểu đạt, để đảm bảo những giới hạn như vậy “không kiềm chế sự tự do biểu đạt” [22]. Ủy ban Nhân quyền cũng cho rằng, trong vấn đề này, “các chế tài hình sự chỉ nên áp dụng trong những trường hợp rất nghiêm trọng, và kết án tù không phải là hình phạt phù hợp”,[23] “Các quốc gia thành viên phải thận trọng trong việc hình sự hóa tội phỉ báng.”[24]
Cũng để giám sát những hành vi vượt quá giới hạn của tự do ngôn luận trên Internet, các quốc gia thường gây áp lực đối với các nhà cung cấp dịch vụ mạng. Tuy vậy, các quốc gia không thể ủy thác toàn bộ việc này cho các nhà cung cấp mạng (hầu hết là các chủ thể tư nhân), bởi trước hết là theo luật nhân quyền quốc tế, “các quốc gia có nhiệm vụ phải hỗ trợ, tôn trọng sự tự do và quyền con người của tất cả các cá nhân đang sống trong vùng lãnh thổ thuộc thẩm quyền quản lý của họ.”[25] Thêm vào đó, việc uỷ thác toàn quyền giám sát nội dung thông tin cho các nhà cung cấp dịch vụ mạng có thể dẫn tới những hình khác của vi phạm nhân quyền, ví dụ như vi phạm quyền riêng tư của người sử dụng dịch vụ do các nhà cung cấp dịch vụ mạng gây ra. Vì vậy, bên cạnh việc yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ mạng nêu ra các quy định ràng buộc hợp lý với người dùng, các quốc gia còn có nhiệm vụ đảm bảo rằng những nhà cung cấp dịch vụ mạng phải tuân theo những tiêu chuẩn về quyền con người trong hoạt động kinh doanh. Ví dụ, ở Thái Lan, nhà nước đã ban hành những luật lệ liên quan đến các nhà cung cấp dịch vụ mạng để đảm bảo rằng nội dung những thông tin được họ truyền tải không bị phản cảm. Còn ở Singapore, chính quyền đã ban hành Quy tắc Thực hành Internet (the Internet Code of Practice) trong đó yêu cầu những nhà cung cấp dịch vụ mạng hạn chế quyền của người dùng được truy cập những tài liệu cấm và nêu ra những bình luận chống lại “trật tự công cộng, sự hài hòa của quốc gia…”
- Giám sát và giới hạn gián tiếp qua quyền tiếp cận thông tin
Theo luật nhân quyền quốc tế, tự do ngôn luận bao gồm quyền tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến thông tin bất kể biên giới[26] (gọi chung là quyền tiếp cận thông tin). Bởi vậy, việc giám sát thực hiện quyền tiếp cận thông tin cũng chính là gián tiếp giám sát tự do ngôn luận.
Cũng như tự do ngôn luận, quyền tiếp cận thông tin cũng không phải là quyền tuyệt đối, vì thế có thể bị hạn chế bởi các quốc gia, với những điều kiện tương tự như hạn chế tự do ngôn luận.
Hiện tại, một số quốc gia đã xây dựng các hệ thống lọc và khóa thông tin để giám sát việc tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến thông tin trên Internet, với sự cộng tác, hỗ trợ của các công ty cung cấp dịch vụ mạng. Hệ thống này có tác dụng kiểm duyệt, ngăn chặn và giới hạn những thông tin mà người dùng có thể tìm kiếm, tạo lập và phổ biến qua Internet. Công nghệ lọc giúp các quốc gia dễ dàng phát hiện các hình ảnh, các văn bản và các trang web có nội dung bị chặn; và một khi phát hiện những nội dung bị xem là không phù hợp thì những nội dung đó sẽ bị khóa hoặc thay đổi. Thông thường trong những trường hợp như vậy, hệ thống sẽ gửi cho người dùng thông báo “lỗi (error)” hoặc “trang không thể tải (page could not load).”
Bên cạnh tác dụng ngăn chặn những thông tin nguy hại như phát ngôn thù ghét, khiêu dâm…những hệ thống lọc và khoá thông tin cũng có thể vi phạm quyền tự do biểu đạt trên mạng của người dùng, bởi chúng có thể được lập trình để giới hạn một cách bất hợp lý những loại thông tin mà người dùng muốn tìm kiếm, tạo lập, tiếp nhận và phổ biến trong môi trường Internet. Trong vấn đề này, bộ lọc Internet Trường thành Lửa (the Great Firewall) ở Trung Quốc thường được nêu ra như là một ví dụ tiêu biểu. Bộ lọc này hiện khóa tất cả những thông tin, thông điệp liên quan đến hoạt động biểu tình ở Thiên An Môn, tình hình Đài Loan, hoạt động của Đạt-lai Lạt-ma,… bằng cách hạn chế các địa chỉ IP truy cập đến các điểm phát và các trang web chứa đựng những thông tin, thông điệp bị cấm. Trung Quốc cũng được nêu như là một ví dụ tiêu biểu về sự cộng tác giữa nhà nước và các công ty cung cấp dịch vụ Internet trong việc giám sát tự do ngôn luận trên mạng. Ví dụ, công ty Baidu cũng được xem là một trong những nhà kiểm duyệt trực tuyến lớn nhất ở Trung Quốc (một công ty khác của nước ngoài là Google cũng đã từng thiết lập hoạt động ở Trung Quốc nhưng sau đó buộc phải chuyển văn phòng sang Hồng Kông nhằm tránh áp lực cộng tác với nhà nước để kiểm duyệt người dùng mạng).
Những hệ thống lọc Internet cũng có thể được các quốc gia sử dụng để cản trở người dùng truy cập thông tin về được lưu giữ bởi các cơ quan nhà nước. Về vấn đề này, theo luật nhân quyền quốc tế, quyền tiếp cận thông tin không phải là quyền tuyệt đối, các nhà nước có thể giữ bí mật một số thông tin để bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự xã hội, sức khoẻ, đạo đức của công chúng, và cả các quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của các chủ thể khác, thì các nhà nước cũng có nghĩa vụ phải công khai đến mức tối đa các thông tin do mình nắm giữ, tối thiểu hoá những thông tin mà mình giữ bí mật. Trong Bình luận chung số 34, Ủy ban Nhân quyền đã khẳng định tự do ngôn luận bao gồm “quyền tiếp cận thông tin được nắm bởi các cơ quan nhà nước”, kể cả những thông tin về bản thân mình do nhà nước nắm giữ. Về khía cạnh thứ hai, trong Bình luận chung số 16, Uỷ ban Nhân quyền đã nêu rõ rằng việc thu thập và lưu trữ thông tin cá nhân trên máy tính, dữ liệu ngân hàng hay bất kì hệ thống nào khác bởi các cơ quan nhà nước hay các tổ chức, cá nhân đều phải được thực hiện theo quy định của pháp luật, và trong trường hợp tài liệu, thông tin về bản thân mình được nhà nước thu thập không chính xác hoặc không hợp pháp thì cá nhân có quyền yêu cầu chỉnh sửa hoặc xóa bỏ.[27] Nhà nước cần “thực hiện mọi nỗ lực để đảm bảo cá nhân có thể dễ dàng truy cập một cách nhanh chóng, hiệu quả và thiết thực những thông tin đó”[28],bằng cách ban hành một quy trình theo luật định nhằm hướng dẫn người dùng để có thể thực hiện tiếp cận thông tin.[29]
Ở một góc độ khác, trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, Internet đã trở thành một công cụ chính, không thể thiếu trong việc tìm kiếm, tiếp nhận và truyền tải thông tin. Vì thế, những trở ngại với việc tiếp cận Internet cũng chính là trở ngại không chỉ với quyền tiếp cận thông tin mà còn với tự do ngôn luận. Theo nghĩa rộng hơn, những trở ngại với việc tiếp cận Internet cũng chính là trở ngại với sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá của đất nước.
Những trở ngại với việc tiếp cận Internet có thể phân làm hai dạng chính đó là:
Trở ngại trong việc truy cập nội dung trực tuyến do thiếu khả năng: Để sử dụng Internet, cần có những hiểu biết nhất định về kỹ thuật – điều mà một số nhóm yếu thế trong xã hội như phụ nữ, dân tộc thiểu số, trẻ em, người khuyết tật, người mù chữ,… khó đạt được. Việc không có khả năng sử dụng Internet không chỉ dẫn đến bất lợi cho việc thực hiện các quyền tiếp cận thông tin, tự do biểu đạt mà còn cả nhiều quyền con người khác. Ví dụ, một dự án nghiên cứu ở Ấn Độ đã cho thấy khả năng tiếp cận Internet có thể tạo ra những thuận lợi lớn cho phụ nữ trong hoạt động kinh doanh, từ đó nâng cao vị thế của phụ nữ trong gia đình họ. Thêm vào đó, Internet chính là một công cụ tuyệt vời để thúc đẩy sự đa dạng văn hóa trong truyền thông. Tuy nhiên, một số quốc gia chưa chú ý đến việc giúp tất cả người dân có khả năng sử dụng Internet, đồng nghĩa với việc nhà nước đã từ chối quyền tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thông tin cho tất cả cộng đồng trong xã hội, từ đó cản trở các quyền xã hội, kinh tế và văn hóa của toàn xã hội. Để khắc phục tình trạng đó, một số quốc gia đã xây dựng và thực hiện những chương trình lớn để cung cấp máy tính và hỗ trợ kết nối Internet trong các trường học và tập huấn cho giáo viên và học sinh được phổ cập hiểu biết về Internet.
Trở ngại trong việc tiếp cận kết nối Internet: Truy cập Internet rộng khắp là điều thiết yếu cho một xã hội để bảo đảm cho nhân dân được hưởng quyền tự do biểu đạt và quyền tiếp cận thông tin. Trong bối cảnh hiện nay, với đa số người dân, sẽ không thể tiếp cận thường xuyên và đầy đủ những thông tin cần thiết nếu không có kết nối Internet. Chính vì vậy, tiếp cận Internet đã được xem là một quyền con người mới, dù chưa được ghi nhận cụ thể trong các văn kiện quốc tế. Theo cách tiếp cận đó, Hội đồng Nhân quyền đã nhấn mạnh rằng các quốc gia phải có những biện pháp cần thiếu để “thúc đẩy và tạo thuận lợi cho người dân tiếp cận Internet” bởi vì tiếp cận Internet đã trở thành một phương thức để hỗ trợ “thực hiện quyền con người nói chung và quyền tự do biểu đạt nói riêng,…”[30]
Một trong những trở ngại chính đối với với tiếp cận Internet ở một số nước đang phát triển là chi phí tiếp cận cao do sự độc quyền về truyền thông và hạ tầng cơ sở yếu kém. Hiện mới chỉ có 4.4% dân số ở các nước đang phát triển có thể truy cập Internet ổn định. Giá thành cao do thiếu sự cạnh tranh giữa các nhà cung cấp dịch vụ truyền thông, và thiếu các thiết bị cần thiết để truy cập được Internet từ nhà riêng khiến cho người dân ở một số nước chỉ còn cách duy nhất là truy cập Internet thông qua các phương tiện truy cập công cộng.
Giáo dục về sử dụng Internet có ý nghĩa rất quan trọng. Người dân có kiến thức về công nghệ sẽ tạo cho nhà nước một nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình phát triển và thu hẹp khoảng cách kinh tế. Đây là lý do một số quốc gia đã thực hiện những dự án lớn về vấn đề này, ví dụ như dự án Mỗi trẻ em một laptop (các quốc gia đang thực hiện dự án này bao gồm: Afghanistan, Brazil, Campuchia, Trung Quốc, Ấn Độ, Rwanda, Thái Lan, Uruguay,…) với mục tiêu cung cấp cho mỗi học sinh tiểu học và trung học công lập một máy tính xách tay. Những máy tính xách tay này được thiết kế chạy bằng pin năng lượng mặt trời và có khả năng tự kết nối vào hệ thống mạng không dây xung quanh.
(Khoa Luật, trường Đại học Vinh)
Tài liệu tham khảo
- ASEAN, Tuyên ngôn nhân quyền ASEAN của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, tại http://www.asean.org/storage/images/ASEAN_RTK_2014/6_AHRD_Booklet.pdf
- Office of the United Nations High Commissioner for Human Rights. International Covenant on Civil and Political Rights. www.ohchr.org/en/professionalinterest/pages/ccpr.aspx
- Frank La Rue. 10 August 2011. Report of the Special Rapporteur on the promotion and protection of the right to freedom of opinion and expression. (United Nations General Assembly document A/66/290). www.ohchr.org/Documents/Issues/Opinion/A.66.290.pdf.
- Frank La Rue. 16 May 2011. Report of the Special Rapporteur on the promotion and protection of the right to freedom of opinion and expression. Office of the United Nations High Commissioner for Human Rights. (A/HRC/17/27). http://www2.ohchr.org/english/bodies/hrcouncil/docs/17session/A. HRC.17.27_en.pdf
- Frank La Rue. 17 April 2013. Report of the Special Rapporteur on the promotion and protection of the right to freedom of opinion and expression. Office of the United Nations High Commissioner for Human Rights. (A/HRC/23/40). www.ohchr.org/Documents/HRBodies/HRCouncil/RegularSession/ Session23/A.HRC.23.40_EN.pdf
- Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, Cuộc cách mạng về thúc đẩy, bảo vệ và thụ hưởng quyền con người về Internet, tại tại http://www.refworld.org/docid/57e916464.html
- Toby Mendel, Andrew Puddephatt, Ben Wagner, Dixie Hawtin and Natalia Torres. 2012. Global Survey on Internet Privacy and Freedom of Expression. Paris, UNESCO Publishing. http://unesdoc.unesco.org/images/0021/002182/218273e.pdf
- United Nations. The Universal Declaration of Human Rights. www.un.org/en/documents/udhr
- United Nations Human Rights Council. 16 July 2012. The promotion, protection and enjoyment of human rights on the Internet. (A/HRC/RES/20/8). http:// ap.ohchr.org/documents/dpage_e.aspx?si=A/HRC/RES/20/8
- United Nations General Assembly. 20 November 2013. The right to privacy in the digital age. (UN Doc A/C.3/68/L.45/Rev.1. http://www.un.org/ga/search/view_doc.asp?symbol=A/C.3/68/L.45/ Rev.1
- 2014. World Trends in Freedom of Expression and Media Development. Paris.
- Ủy ban Nhân quyền – Bình luận chung số 34, Hướng dẫn về khái niệm tự do quan điểm và biểu đạt trong thực tiễn cho các quốc gia thành viên, tại http://bangkok.ohchr.org/programme/documents/general-comment-34.aspx
- Ủy ban Nhân quyền, vụ Alexander Adonis v The Philippines, tại http://hrlibrary.umn.edu/undocs/1815-2008.html
- William H. Dutton, Anna Dopatka, Michael Hills, Ginette Law and Victoria Nash. 2011. Freedom of Connection, Freedom of Expression: The Changing Legal and Regulatory Ecology Shaping the Internet. Paris, UNESCO Publishing. http://unesdoc.unesco.org/images/0019/001915/191594e. pdf.
* Bài viết này đã được trình bày và in trong Kỷ yếu Hội thảo “Tự do Internet: Phạm vi và giới hạn” do Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội đã tổ chức vào ngày 29/5/2018.
[1] United Nations. The Universal Declaration of Human Rights. www.un.org/en/documents/udhr
[2] Office of the United Nations High Commissioner for Human Rights. International Covenant on Civil and Political Rights. www.ohchr.org/en/professionalinterest/pages/ccpr.aspx
[3] UDHR, Điều 19.
[4] Tuyên ngôn nhân quyền ASEAN của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, Điều 23, tại http://www.asean.org/storage/images/ASEAN_RTK_2014/6_AHRD_Booklet.pdf
[5] ICCPR, Điều 19 (3).
[6] ICCPR, Điều 20.
[7] Frank La Rue. 10 August 2011. Report of the Special Rapporteur on the promotion and protection of the right to freedom of opinion and expression. (United Nations General Assembly document A/66/290). www.ohchr.org/Documents/Issues/Opinion/A.66.290.pdf.
[8] Frank La Rue. 10 August 2011.Tài liệu đã dẫn.
[9] United Nations Human Rights Council. 16 July 2012. The promotion, protection and enjoyment of human rights on the Internet. (A/HRC/RES/20/8). http:// ap.ohchr.org/documents/dpage_e.aspx?si=A/HRC/RES/20/8
[10] Frank La Rue. 10 August 2011.Tài liệu đã dẫn.
[11] Frank La Rue. 16 May 2011. Report of the Special Rapporteur on the promotion and protection of the right to freedom of opinion and expression. Office of the United Nations High Commissioner for Human Rights. (A/HRC/17/27). http://www2.ohchr.org/english/bodies/hrcouncil/docs/17session/A. HRC.17.27_en.pdf p. 7
[12] Frank La Rue. 17 April 2013. Report of the Special Rapporteur on the promotion and protection of the right to freedom of opinion and expression. Office of the United Nations High Commissioner for Human Rights. (A/HRC/23/40). www.ohchr.org/Documents/HRBodies/HRCouncil/RegularSession/ Session23/A.HRC.23.40_EN.pdf
[13] La Rue, A/HRC/23/40, tài liệu đã dẫn, p. 7.
[14] United Nations General Assembly. 20 November 2013. The right to privacy in the digital age. (UN Doc A/C.3/68/L.45/Rev.1. http://www.un.org/ga/search/view_doc.asp?symbol=A/C.3/68/L.45/ Rev.1
[15] La Rue, A/HRC/23/40, tài liệu đã dẫn, pp. 19–20.
[16] Ủy ban Nhân quyền – Bình luận chung số 34, Đoạn 43.
[17] William H. Dutton, Anna Dopatka, Michael Hills, Ginette Law and Victoria Nash. 2011. Freedom of Connection, Freedom of Expression: The Changing Legal and Regulatory Ecology Shaping the Internet. Paris, UNESCO Publishing. http://unesdoc.unesco.org/images/0019/001915/191594e. pdf
[18] Toby Mendel, Andrew Puddephatt, Ben Wagner, Dixie Hawtin and Natalia Torres. 2012. Global Survey on Internet Privacy and Freedom of Expression. Paris, UNESCO Publishing, pp. 95–97. http://unesdoc.unesco.org/images/0021/002182/218273e.pdf
[19] UNESCO. 2014. World Trends in Freedom of Expression and Media Development. Paris/
[20] Frank La Rue. 10 August 2011.Tài liệu đã dẫn.
[21] Đạo luật phòng chống tội phạm mạng Philippine, tại http://www.officialgazette.gov.ph/2012/09/12/republic-act-no-10175/
[22] Ủy ban Nhân quyền – Bình luận chung số 34, Hướng dẫn về khái niệm tự do quan điểm và biểu đạt trong thực tiễn cho các quốc gia thành viên, tại http://bangkok.ohchr.org/programme/documents/general-comment-34.aspx
[23] Ủy ban Nhân quyền – Bình luận chung số 34, tài liệu đã dẫn
[24] Ủy ban Nhân quyền, vụ Alexander Adonis v The Philippines, tại http://hrlibrary.umn.edu/undocs/1815-2008.html
[25] UDHR, phần mở đầu.
[26] UDHR, Điều 19; ICCPR Điều 19; Tuyên ngôn nhân quyền ASEAN Điều 23.
[27] Ủy ban Nhân quyền – Bình luận chung số 34, Đoạn 18; và Ủy ban Nhân quyền – Bình luận chung số 16, Đoạn 10, tài liệu đã dẫn
[28] Ủy ban Nhân quyền – Bình luận chung số 34, Đoạn 19.
[29] Ủy ban Nhân quyền – Bình luận chung số 34, Đoạn 19.
[30] Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, Cuộc cách mạng về thúc đẩy, bảo vệ và thụ hưởng quyền con người về internet, tại tại http://www.refworld.org/docid/57e916464.html