Quyền làm việc là nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của người lao động được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế, có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.
Tương thích với pháp luật quốc tế
Trong pháp luật quốc tế về quyền con người, hai công ước chủ chốt: Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị(ICCPR) và Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR)chứa đựng những nội dung cơ bản, bao trùm về quyền con người trong lĩnh vực lao động, việc làm.
ICESCR có nhiều nội dung liên quan trực tiếp đến quyền lao động. Trong đó, Điều 6 ICESCR quy định: Các quốc gia thành viên Công ước này thừa nhận quyền làm việc, trong đó bao gồm quyền của tất cả mọi người có cơ hội kiếm sống bằng công việc do họ tự do lựa chọn hoặc chấp nhận, và các quốc gia phải thi hành các biện pháp thích hợp để đảm bảo quyền này.
Không chỉ quy định về quyền làm việc, ICESR còn quy định về những quyền tối thiểu và căn bản của con người về việc làm như: đảm bảo tiền lương thoả đáng, có khả năng mang lại cuộc sống tương đối đầy đủ cho bản thân người lao động và gia đình họ;bảo đảm tiền công bằng nhau cho những công việc có giá trị như nhau, không có sự phân biệt đối xử nào; đặc biệt, phụ nữ phải được đảm bảo những điều kiện làm việc không kém hơn đàn ông, được trả công ngang nhau đối với những công việc có giá trị như giống nhau; có cơ hội ngang nhau trong việc thăng tiến dựa trên thâm niên và năng lực làm việc…
Cùng với ICESR, Công ước ICCPR quy định 19 nhóm quyền, trong đó có nhóm quyền tự do không bị buộc làm nô lệ hay nô dịch, không được đòi hỏi bất kỳ người nào phải lao động bắt buộc hoặc cưỡng bức (Điều 8)
Có thể nói, hầu hết các quyền con người trong lĩnh vực lao động, việc làm của ICCPR và ICESCR đều được tái khẳng định ở các công ước liên quan khác của LHQ hoặc đó là sự khái quát hóa các tiêu chuẩn tương ứng đã được thể hiện trong các công ước của ILO, cụ thể là:Quyền bình đẳng, không phân biệt đối xử được tái khẳng định trong Công ước CEDAW và là sự khái quát hóa các tiêu chuẩn đã được quy định tại Công ước ILO số 100 và Công ước ILO số 111; Quyền tự do hiệp hội là sự nhắc lại và khái quát hóa các tiêu chuẩn đã được quy định trong Công ước ILO số 87 và Công ước ILO số 98; Quyền tự do không bị buộc làm nô lệ hay nô dịch, trong đó có cả vấn đề lao động cưỡng bức là sự nhắc lại và khái quát hóa tiêu chuẩn của ILO về lao động cưỡng bức theo Công ước số 29 và Công ước số 105; Các quyền và sự bảo vệ đối với trẻ em được tái khẳng định và cụ thể hóa trong Công ước CRC, Công ước ILO số 138 và Công ước ILO số 182.
Nội luật hóa quyền tự do làm việc
Cùng với quá trình hội nhập quốc tế và tăng cường hợp tác quốc tế về quyền con người, Việt Nam đã tham gia phê chuẩn 21/189 công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) liên quan đến việc đảm bảo quyền của người lao động. Đây là mức độ cam kết rất cao, thể hiện nỗ lực rất lớn của Việt Nam trong điều kiện kinh tế – xã hội còn nhiều khó khăn.Từ Hiến pháp đến các đạo luật liên quan đến lao động như Bộ luật Dân sự và Bộ luật Lao động, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại…đều quy định về quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm của người lao động.
Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam khẳng định công dân có quyền làm việc, được tự do lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc.Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi. (Khoản 1, 2 Điều 35). Có thể nói, quy định mới trong Hiến pháp 2013 đã đề cao quyền tự do lựa chọn việc làm, nơi làm việc. Đây là một trong những quyền con người quan trọng nhất trong lĩnh vực lao động.
Giải quyết việc làm, đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội làm việc là trách nhiệm của nhà nước, của các doanh nghiệp và của toàn xã hội. Trên tinh thần đó, Điều 57, Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho người lao động. Nhà nước bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động, sử dụng lao động và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định.
Để tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho việc thực hiện quyền được lao động của người dân, Bộ luật Lao độngnăm 2012 quy định người lao động có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp, học nghề, nâng cao trình độ nghề nghiệp. Đồng thời,Bộ luật Lao động cũng là công cụ pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền làm việc, lợi ích và các quyền khác của người lao động; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động, tạo điều kiện cho mối quan hệ lao động được hài hoà và ổn định.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng đề ra hàng loạt các chương trình kinh tế – xã hội như: Chương trình quốc gia về giải quyết việc làm với những hoạt động: thực hiện quỹ quốc gia tạo việc làm; thành lập các ngân hàng người nghèo; giao quyền sử dụng ruộng đất để khuyến khích trồng rừng, chương trình hỗ trợ đánh bắt xa bờ…
Bên cạnh đó, để khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh để tạo việc làm cho người lao động, Nhà nước cũng ban hành một hệ thống chủ trương, chính sách thông thoáng thu hút sự đầu tư của nhiều doanh nghiệp, tổ chức kinh tế nước ngoài nhằm tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động, tạo điều kiện cho những người trong độ tuổi lao động đều có thể thực hiện quyền lao động của mình. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, Bộ luật Lao động cũng đưa ra các quy định về hợp đồng lao động, hình thức hợp đồng lao động, nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động, nghĩa vụ, trách nhiệm của người sử dụng lao động và phương thức giải quyết tranh chấp lao động…
Cùng với việc khẳng định vai trò của các tổ chức, cá nhân trong việc đảm bảo việc làm, thu nhập cho người lao động thì pháp luật cũng khẳng định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cả người lao động và người sử dụng lao động, xây dựng mối quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định. Theo quy định của pháp luật lao động hiện hành, người lao động có thể giao kết hợp đồng lao động với nhiều người sử dụng lao động và học nghề phù hợp với yêu cầu về việc làm của mình.■
Khoản 1, Điều 5, Bộ luật Lao động năm 2012 quy định về quyền có làm việc, tự do lựa chọn việc làm, được hưởng thù lao: “(1). Người lao động có các quyền sau đây: a) Làm việc, tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp, học nghề, nâng cao trình độ nghề nghiệp và không bị phân biệt đối xử; b) Hưởng lương phù hợp với trình độ kỹ năng nghề trên cơ sở thoả thuận với người sử dụng lao động; được bảo hộ lao động, làm việc trong điều kiện bảo đảm về an toàn lao động, vệ sinh lao động; nghỉ theo chế độ, nghỉ hằng năm có lương và được hưởng phúc lợi tập thể…”.
TS. Bùi Sỹ Lợi
Phó Chủ nhiệm Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội