Các mạng xã hội (Online Social Media) là một dạng biểu hiện đặc biệt của Internet, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy các tương tác xã hội, thông qua việc cho phép tất cả mọi người có thể phổ biến, chia sẻ và trao đổi kiến thức, thông tin. Mạng xã hội có tính trực quan và khả năng phổ biến thông tin nhanh hơn nhiều so với các phương tiện truyền thông truyền thống. Dù vậy, do cho phép người dùng chia sẻ công khai các nội dung cá nhân, mạng xã hội vô hình trung đã làm mờ ranh giới giữa sự công cộng và riêng tư, giữa quyền và nghĩa vụ, từ đó đặt ra những thách thức lớn với việc bảo đảm sự cân bằng giữa những yêu cầu về sự tự do và tuân thủ pháp luật của người dùng cũng như của các công ty điều hành mạng xã hội.
Kỳ cuối Người dùng mạng xã hội là nhóm dễ bị tổn thương về phương diện nhân quyền
Các quốc gia lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nga cũng liên tục vướng phải vấn đề này để quản lý người dùng quốc gia hay nhắm vào các nước được cho là bất đồng quan điểm trên lập trường mỗi nước. Năm 2013, cựu nhân viên Cơ quan An ninh Quốc gia Mỹ (NSA) Edward Snowden công bố thông tin về chương trình kiểm soát dữ liệu người dùng điện thoại và Internet mà Chính phủ Mỹ đang sử dụng để theo dõi toàn thế giới. Khi đó, dư luận, truyền thông Mỹ và thế giới đã kịch liệt phản đối chương trình theo dõi này và nhấn mạnh việc xâm phạm đến quyền riêng tư là “không thể chấp nhận được”. Tổng thống Obama “đã phải lặp lại cam kết của chính phủ về việc thực thi các biện pháp cho phép người sử dụng mạng cảm thấy tin tưởng hơn trong việc quyền của họ được bảo vệ và chính phủ vẫn đảm bảo kiểm soát được an ninh mạng của quốc gia”. Tổng thống Mỹ Donald Trump ngày 3/4/2018 đã ký dự luật bãi bảo quy định quyền riêng tư băng rộng Obama. Đây được xem là một chiến thắng cho các nhà cung cấp dịch vụ Internet và là một sự bất lợi đối với những người ủng hộ quyền riêng tư. Dưới thời chính quyền Tổng thống Obama yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ Internet có nhiều biện pháp bảo vệ sự riêng tư của các khách hàng trước các trang web như Google và Facebook, đã bị xóa bỏ hoàn toàn thay vào đó là việc thu thập thông tin của các nhà mạng để quản lý giám sát người dùng
Nghiên cứu các trường hợp của Facebook, Twitter, Weibo có thể rút ra một số nhận xét, kết luận sau đây:
Chính sách, pháp luật của các quốc gia đối với người dùng mạng xã hội có vai trò quyết định về phạm vi của tự do ngôn luận trên môi trường trực tuyến. Những chính sách, quy định pháp luật về vấn đề này của các nhà nước hiện khá khác nhau. Các chính sách ủng hộ tự do ngôn luận sẽ dẫn tới sự cởi mở của môi trường mạng. Ngược lại, những chính sách hạn chế tự do ngôn luận sẽ dẫn đến việc kiểm duyệt của công ty cung cấp dịch vụ hoặc sự tự kiểm duyệt của chính người dùng. Một số chính sách hạn chế mà các chính phủ đang áp dụng không tương thích với các tiêu chuẩn của luật nhân quyền quốc tế về tự do ngôn luận và biểu đạt.
Các mạng xã hội phụ thuộc nhưng có sự độc lập nhất định với các chính phủ trong việc quyết định phạm vi của tự do ngôn luận trên môi trường trực tuyến. Do phải giải quyết bài toán cân bằng giữa yêu cầu của các chính phủ và yêu cầu thu hút người dùng mạng (để bảo vệ lợi ích của chính mình), các công ty cung cấp dịch vụ mạng xã hội, cụ thể là Facebook và Twitter, đôi khi không chấp nhận những yêu cầu về hạn chế quá mức của các chính phủ. Ví dụ, Twitter chỉ tuân thủ 11% các yêu cầu của các chính phủ nêu ra. Điều này là bởi các mạng xã hội cũng có quyền lực và sự độc lập nhất định để bảo đảm không gian hoạt động riêng mà có thể thách thức đến một mức độ nào đó các yêu cầu hạn chế nội dung từ các chính phủ. Quyền lực và sự độc lập của các mạng xã hội chủ yếu là do ích lợi mà họ mang lại cho các cộng đồng, và theo nghĩa rộng, là cho các quốc gia. Mạng xã hội tuy mới hình thành nhưng hiện đã trở thành không thể thiếu cho sự phát triển về tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá của các cộng đồng và các quốc gia, vì thế các chính phủ không thể đối xử một cách tuỳ tiện và độc đoán với các mạng xã hội. Bên cạnh đó, việc đối xử tuỳ tiện và độc đoán với các mạng xã hội còn có thể gặp sự phản đối của cộng đồng người dùng, các tổ chức quốc tế và các quốc gia khác.
Người dùng mạng xã hội là nhóm dễ bị tổn thương về phương diện nhân quyền. Tính chất dễ bị tổn thương thể hiện ở hai khía cạnh chính đó là tự do biểu đạt và quyền về đời tư. Tự do biểu đạt trên mạng xã hội có thể khiến cho người dùng bị theo dõi, bắt bớ và đàn áp nếu như các công ty cung cấp dịch vụ mạng hợp tác với chính quyền để cung cấp thông tin về người dùng. Quyền về đời tư của người dùng có thể bị vi phạm nghiêm trọng nếu chính sách bảo mật dữ liệu của các mạng xã hội thiếu hợp lý và không được thực thi đầy đủ.
Phân tích sự chính sách và thực tiễn hoạt động của các công ty cung cấp dịch vụ mạng xã hội hàng đầu thế giới hiện nay, có thể thấy rằng các công ty này đã có nhiều nỗ lực để bảo vệ quyền của người dùng, chủ yếu là để thu hút người dùng mạng, qua đó thu lợi ích từ dịch vụ quảng cáo. Tuy nhiên, mức độ bảo vệ quyền của người dùng phụ thuộc rất nhiều vào chính sách, pháp luật của các quốc gia nơi các công ty này đặt trụ sở, và cả ở những nơi các công ty này cung cấp dịch vụ mạng.
Tính minh bạch trong hoạt động của các mạng xã hội đã được cải thiện nhưng vẫn còn hạn chế. Hiện tại, các công ty cung cấp dịch vụ mạng (trừ Weibo) cơ bản đã tuân thủ các nguyên tắc về tự do ngôn luận và quyền riêng tư do Global Network Initiative đề xướng. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu các nguyên tắc và tiêu chuẩn về quản trị nội bộ của các công ty, cũng như về các điều khoản thực thi dịch vụ. Việc thiếu tính minh bạch và nhất quán trong việc thực thi các điều khoản dịch vụ là một trong những nguyên nhân quan trọng làm ảnh hưởng đến việc thực thi quyền tự do ngôn luận và quyền bảo vệ đời tư của người dùng mạng xã hội.
PGS.TS Vũ Công Giao
Khoa Luật ĐHQG Hà Nội