Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác tin bài của nhanquyenvn.org, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "nhanquyenvn.org". Tìm kiếm ngay
40101

Luật Hải cảnh mới của Trung Quốc và những thách thức đối với các quốc gia Kỳ 2: Nguy hiểm cho các quốc gia

Những quy định trong Luật Hải cảnh mới của Trung Quốc đặc biệt với Điều 22 mở rộng phạm vi sử dụng vũ khí của Lực lượng Hải cảnh Trung Quốc (CCG) với các tàu thuyền, tổ chức nước ngoài đặt ra nhiều thách thức đối với các quốc gia khác ở Thái Bình Dương và là một trong những nguyên do khiến tình hình trên Biển Đông ngày càng trở nên căng thẳng.

Các tàu của CCG được sử dụng vũ khí

Trên thực tế, cho đến nay, các tàu của CCG thường xuyên có những hành vi xâm phạm lãnh hải của các quốc gia khác. Tàu của CCG thường có thân màu trắng với các vạch màu xanh lam và được phân loại là tàu chính thức của chính phủ thuộc loại “tàu chính phủ hoạt động vì mục đích phi thương mại,” theo quy định tại Điều 31 của UNCLOS. Câu hỏi đặt ra là sau khi Luật Hải cảnh mới có hiệu lực, liệu các tàu tuần tra của CCG có được trao thêm chức năng phòng thủ mới và thay đổi tình trạng pháp lý từ tàu chính phủ sang tàu chiến hay không? Điều 29 của UNCLOS định nghĩa tàu chiến là “một con tàu thuộc lực lượng vũ trang của một quốc gia mang nhãn hiệu bên ngoài để phân biệt những con tàu khác mang quốc tịch của quốc gia đó. Tàu này  được đặt dưới sự chỉ huy của một sĩ quan được chính phủ của quốc gia đó ủy nhiệm và có tên trong danh sách 35 dịch vụ thích hợp hoặc tương đương và được điều khiển bởi một thủy thủ đoàn thuộc trách nhiệm của lực lượng vũ trang”. Trong khi đó, CCG có các tàu tuần tra được trang bị pháo 76mm cấp khu trục và điều đó có nghĩa tàu CCG có thể được coi là tàu lực lượng quân sự.

Sau khi Luật Hải cảnh mới có hiệu lực, Trung Quốc đã gia tăng hoạt động của các tàu cá trên Biển Đông

Thêm vào đó, hiện việc sử dụng vũ khí của CCG lại đang được tiến hành theo một loạt luật nội địa khác của Trung Quốc gồm Điều 10 và 11 của Luật Cảnh sát Nhân dân; Điều 2, 4 và 9-11 của Quy định về trang bị an ninh và sử dụng vũ khí của Cảnh sát nhân dân; và Điều 9 của Quy chế hoạt động chấp hành pháp luật hàng hải của các cơ quan Công an. Tất cả các điều này đều nêu rõ: “Nhân viên thực thi pháp luật của các tàu tuần tra biển chỉ được nổ súng khi cần thiết. Khi nổ súng, cảnh báo bằng lời nói hoặc cảnh báo nổ súng thường phải được đưa ra trước. Không được nổ súng khi không cần thiết và không được bắn vào tàu đang bị điều tra một cách không cần thiết. Nên hạn chế sử dụng vũ khí để khuất phục bên kia”. Trong khi đó, Điều 22 của Luật Hải cảnh mới lại mở rộng phạm vi sử dụng vũ khí bao gồm cả các tổ chức nước ngoài còn Điều 47 là một điều khoản cho phép sử dụng vũ khí tích cực hơn. Cụ thể, Điều 47, Luật Hải cảnh mới của Trung Quốc quy định, các nhân viên hải cảnh có thể sử dụng vũ khí cầm tay khi các tàu nước ngoài chống lại lệnh từ CCG và khi các biện pháp ngăn chặn khác không hiệu lực.

Tạo cơ sở pháp lý cho các hành vi ngang ngược hơn của Trung Quốc?

“Luật này còn quy định CCG có quyền theo dõi và giám sát các tàu nước ngoài trong vùng tài phán của Trung Quốc; đồng thời giam giữ hoặc dùng vũ lực trục xuất các tàu nước ngoài hoạt động trong lãnh hải Trung Quốc, hoặc dùng vũ lực trục xuất các tàu quân sự hoặc tàu của chính phủ nước ngoài hoạt động trong vùng biển thuộc quyền tài phán. Ngoài ra, luật cũng cho phép các tàu hải cảnh Trung Quốc sử dụng vũ khí gắn trên tàu, trên thiết bị bay và cầm tay trong các hoạt động chống khủng bố, trong những “sự cố nghiêm trọng” khi các tàu và máy bay hải cảnh bị tấn công bằng vũ khí và các thiết bị bạo lực khác… Luật Hải cảnh mới của Trung Quốc đã cho phép CCG sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực không chỉ trong vùng biển hợp pháp của Trung Quốc mà còn cả trong vùng biển hợp pháp của nhiều quốc gia khác xung quanh Biển Đông và biển Hoa Đông, như vậy là vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của các quốc gia xung quanh Biển Đông và ở khu vực biển Hoa Đông”, PGS-TS Vũ Thanh Ca phân tích.

Đồng quan điểm này, TS Jay Batongbacal cho rằng, việc được nổ súng trước tàu của các nước ven biển tại các vùng biển nước đó có quyền hợp pháp (ví dụ tàu cá hay tàu của nước nào đó trong vùng đặc quyền kinh tế) có thể xem như một hành vi sử dụng vũ lực thù địch, tức là một hành vi chiến tranh. Còn TS Lê Hồng Hiệp  thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS) Singapore thì gọi đây là “nguy cơ tiềm ẩn rủi ro và gia tăng căng thẳng trên Biển Đông, thậm chí có thể dẫn tới xung đột vũ trang”. Hơn nữa, Luật Hải cảnh mới cũng có thể giúp Trung Quốc răn đe các bên tranh chấp khác và tạo cơ sở pháp lý cho các hành vi ngang ngược hơn của Trung Quốc trên các vùng biển mà họ đơn phương đưa ra yêu sách…

 

 

GS Shigeki Sakamoto gọi Luật Hải cảnh mới của Trung Quốc là một luật rất nguy hiểm cho hòa bình, an ninh khu vực Biển Đông và biển Hoa Đông và nhận định rằng những thay đổi này đặt ra những thách thức không nhỏ đối với các quốc gia khác ở Thái Bình Dương. Vì vậy, cộng đồng quốc tế cần phải có những nỗ lực quốc tế nhiều hơn nữa để kiềm chế những quy định và hoạt động sai trái của Trung Quốc. Theo quan điểm PGS-TS Vũ Thanh Ca, các nỗ lực này cần được thể hiện về mặt ngoại giao như Nhật Bản và Philippines gửi Công hàm ngoại giao lên LHQ bác bỏ tuyên bố chủ quyền sai trái của Trung Quốc trên Biển Đông cũng như khẳng định luật này là nguy hiểm cho các hoạt động tuân thủ luật pháp quốc tế trên Biển Đông. Trong tháng 3 và tháng 4, Mỹ, Anh, Đức và một số quốc gia khác đã cử tàu chiến vào Biển Đông để vô hiệu hóa luật này. Còn các quốc gia khác cần phải tạo tiếng nói đồng thuận để bác bỏ Luật Hải cảnh mới của Trung Quốc; yêu cầu Trung Quốc sửa luật, tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế và  làm rõ phạm vi “vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc” phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS.

Huyền Chi

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *