Đây là bài phân tích mang nặng tính dự báo trên Global Times ngày 6/10/2022, tuy vậy, tác giả cho thấy, lập luận của họ rất có cơ sở và đáng cho chúng ta tham khảo.
===
Theo AP đưa tin, một báo cáo của Bộ Tài chính Hoa Kỳ công bố mới đây, tổng nợ quốc gia của Hoa Kỳ đã vượt qua 31 nghìn tỷ USD, tiến gần hơn mức trần theo luật định khoảng 31,4 nghìn tỷ USD mà Quốc hội đưa ra hạn chế khả năng vay của chính phủ.
Đầu tiên, rõ ràng nền kinh tế Mỹ đang ở trong tình trạng kém tươi sáng hơn nhiều so với những gì nhiều người đã dự báo, với khoản nợ hiện cao hơn hàng nghìn tỷ đô la so với GDP, vốn chỉ khoảng 23 nghìn tỷ đô la vào năm ngoái. Bắt đầu từ khoảng năm 2013, nợ của Hoa Kỳ bắt đầu vượt xa GDP một cách đều đặn. Sau năm 2020, nó đã tăng lên khoảng 125% GDP của cả năm, nhanh chóng tăng vọt lên gần 135% vào năm 2021. Khi tỷ lệ đi vay tiếp tục tăng, tỷ lệ nợ xấu trên GDP dự kiến sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới.
Theo Bai Ming, Phó giám đốc Viện nghiên cứu thị trường quốc tế tại Học viện Hợp tác Kinh tế và Thương mại Quốc tế Trung Quốc phân tích trên Global Times ngày 6/10/2022: Một mặt, chính quyền Biden hy vọng sẽ kiềm chế được lạm phát, vốn có khả năng sẽ kéo nền kinh tế và việc làm của Mỹ đi xuống. Mặt khác, nếu chính phủ Mỹ chọn kích thích nền kinh tế bằng cách tăng quy mô nợ, các nhà đầu tư sẽ phải đối mặt với áp lực lớn hơn như chi phí vốn tăng, cuối cùng làm giảm triển vọng tăng trưởng kinh tế. Do đó, chính phủ Mỹ sẽ rất khó để cân bằng giữa phục hồi kinh tế và lạm phát tăng cao”, “Mức trần nợ của Mỹ được nâng lên nhiều lần, ở mức độ lớn, cũng sẽ có tác động đến thị trường tài chính Mỹ, về mặt khách quan sẽ đóng vai trò tiêu cực như đổ thêm dầu vào lửa trước các đợt tăng lãi suất.
Thứ hai, tổng số nợ 31 nghìn tỷ đô la cũng chỉ ra rằng sẽ có nhiều cuộc chiến chính trị gay gắt hơn về các vấn đề liên quan đến quyết định của quốc hội ở Washington, có nghĩa là hầu hết các dự án và sáng kiến lớn của liên bang sẽ khó được thực hiện, ảnh hưởng đến sức sống kinh tế nội bộ của đất nước và ảnh hưởng bên ngoài. Ngoài ra, Bai Ming cũng lưu ý, lần gần đây nhất mức nợ của Mỹ đã gần chạm trần, chính phủ gần như buộc phải đóng cửa, và khoản nợ ngày càng cao cũng sẽ gây hại cho hoạt động cơ bản của chính phủ liên bang.
Thứ ba, gánh nặng nợ ngày càng gia tăng đương nhiên sẽ làm gia tăng lo ngại về khả năng trả nợ của chính phủ Hoa Kỳ, và thậm chí khả năng xảy ra các hành vi cực đoan trong các chính sách đối nội và đối ngoại của Hoa Kỳ trong tương lai, chẳng hạn như kích động bất ổn, bất ổn hoặc thậm chí là một chính sách đối ngoại theo định hướng chiến tranh nhằm thay đổi hoặc thậm chí tìm cách từ bỏ khoản nợ của mình, đã xảy ra trong lịch sử Hoa Kỳ. Điều này có thể làm xói mòn niềm tin và sự tín nhiệm vào Hoa Kỳ.
AP cho rằng, báo cáo về gánh nặng nợ của Mỹ cảnh báo trong triển vọng 30 năm rằng, nếu không được giải quyết, khoản nợ sẽ sớm tăng lên mức cao mới có thể gây ảnh hưởng đến nền kinh tế Mỹ.
Hơn nữa, không nên đánh giá thấp mức lạm phát hiện nay ở Mỹ, cùng với giá dầu cao, tranh chấp năng lượng giữa Mỹ, châu Âu và Nga, cũng như xung đột Nga-Ukraine và các tình hình quốc tế phức tạp khác, là thách thức của khoản nợ 31 nghìn tỷ USD trong bối cảnh các cuộc khủng hoảng đầy rủi ro mà Washington đang phải đối mặt. Nếu không giải quyết được xu hướng đi lên dai dẳng, sức hấp dẫn của Mỹ với tư cách là một tập đoàn toàn cầu về vốn và nhân tài sẽ càng bị xói mòn, ảnh hưởng đến sức mạnh của nước này về mọi mặt.
Global Times cảnh báo, điều quan trọng cần lưu ý là thực tế Mỹ đã quen với việc áp dụng nhiều chính sách khác nhau để xoa dịu xung đột, khiến người Mỹ bình thường và các quốc gia khác phải gánh chịu cái giá cuối cùng. Mỹ không đóng vai trò bình ổn trong nền kinh tế toàn cầu mà một cường quốc nên làm. Thay vào đó, nó đã nhiều lần khiến nước khác phải chịu trách nhiệm về hậu quả khi họ mắc sai lầm. Là nơi sinh ra một số cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu sau Thế chiến II, Mỹ một lần nữa có thể trở thành kẻ gây ra hỗn loạn với chi phí phát triển kinh tế trên toàn thế giới, vì nợ cũng như các chính sách kinh tế và tiền tệ của nó đều làm tăng khả năng một cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu khác trong tương lai.