Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác tin bài của nhanquyenvn.org, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "nhanquyenvn.org". Tìm kiếm ngay
33336

Hỏi đáp về quyền con người – Bài 6

  1. Quốc hội có vai trò như thế nào trong bảo vệ quyền con người?

Điều 69, Hiến pháp năm 2013 quy định: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Với vị trí, tích chất của Quốc hội, Quốc hội đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ, bảo đảm và thúc đẩy quyền con người, quyền công dân thông qua thực hiện các chức năng, quyền hạn được quy định trong Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội năm 2015, đó là chức năng lập hiến, lập pháp; thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội;quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.

Trong bộ máy nhà nước, Quốc hội đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ, bảo đảm quyền con người thông qua thực hiện chức năng lập hiến, lập pháp; quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của bộ máy nhà nước; thực hiện trách nhiệm tiếp công dân, tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội và thực hiện thẩm quyền, trách nhiệm của Quốc hội trong việc xem xét báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri cả nước.

– Thông qua thực hiện quyền lập hiến và lập pháp, Quốc hội
thể chế hóa quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người thành các quy phạm pháp luật của Nhà nước đáp ứng nguyên tắc và yêu cầu của Nhà nước pháp quyền là bảo vệ, bảo đảm quyền con người bằng pháp luật. Khoản 1, Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”.

Thực tiễn sau hơn 30 năm đổi mới, trong hàng loạt các quan hệ xã hội cần điều chỉnh bằng luật, quyền con người luôn được xác định là nội dung ưu tiên trong hoạt động lập pháp. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp tạo thành hệ thống các quyền và nghĩa vụ cơ bản, là những nguyên tắc hiến định. Các quyền được quy định trong luật là cụ thể hóa Hiến pháp. Các văn bản dưới luật có nhiệm vụ cụ thể hóa các nguyên tắc, quyền và nghĩa vụ cơ bản được quy định trong Hiến pháp và luật để bảo đảm các quyền được thực thi trong cuộc sống. Vì vậy, chức năng lập hiến, lập pháp đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ, bảo đảm quyền con người, vừa là cơ sở ban đầu vì nếu không có các quy định của Hiến pháp và luật về quyền con người, thì không có cơ sở pháp lý cho bảo vệ quyền con người, quyền công dân, đồng thời quy định quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp và pháp luật tạo nền tảng bảo đảm pháp lý cho toàn bộ hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước và toàn xã hội có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân.

– Thông qua thực hiện thẩm quyền quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, mọi quyết định của Quốc hội đều gián tiếp hoặc trực tiếp liên quan và ảnh hưởng đến bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Điều 70 Hiến pháp năm 2013 quy định chi tiết các vấn đề quan trọng của đất nước mà Quốc hội quyết định như: quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia; phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội; quyết định trưng cầu ý dân; quyết định đại xá; quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước… Do vậy, mọi quyết định phải thực sự thể hiện và thực hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân, các quyết định được ban hành phải thận trọng, cân nhắc và suy tính kỹ càng trước khi thông qua. Hiệu quả và hiệu lực trong các quyết định của Quốc hội có tính đúng đắn và sáng suốt sẽ có tác động to lớn đến việc bảo đảm quyền con người và ngược lại, sự sơ suất, thiếu thận trọng, chủ quan, duy ý chí sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm quyền con người.

– Thông qua thực hiện thẩm quyền giám sát tối cao của Quốc hội, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quốc hội có quyền giám sát tối cao đối với hoạt động nhà nước”. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và Nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng Bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập.

Quyền con người, quyền công dân được quy định trong Hiến pháp và pháp luật sẽ khó đi vào cuộc sống hoặc có thể bị vi phạm, hay ít được tôn trọng nếu như công tác giám sát của Quốc hội không được tăng cường để phát hiện những vi phạm hoặc tính thực thi kém của quy phạm pháp luật về quyền con người, từ đó kịp thời đề ra phương hướng và biện pháp cần thiết cho việc sửa đổi, bổ sung hay hủy bỏ những văn bản có nội dung trái Hiến pháp và luật.

Hoạt động thực hiện chức năng giám sát xuất phát từ vị trí và tính chất của Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Hơn nữa, giám sát của Quốc hội còn là quyền giám sát tối cao. Tính tối cao trong hoạt động giám sát của Quốc hội cũng chỉ rõ sự khác biệt về đối tượng, nội dung, phương thức và hậu quả pháp lý so với các hoạt động kiểm sát của Viện Kiểm sát nhân dân, giám đốc xét xử của Tòa án nhân dân và hoạt động thanh tra của Thanh tra Chính phủ.

Quốc hội sử dụng các phương thức khác nhau để thực hiện giám sát tối cao như: xem xét báo cáo công tác của các đối tượng chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội; xem xét việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của các đối tượng chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội; xem xét việc trả lời chất vấn của các đối tượng thuộc quyền giám sát tối cao của Quốc hội.

– Thông qua hoạt động tiếp công dân, tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội và Quốc hội xem xét báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri cả nước

Hoạt động của đại biểu Quốc hội không chỉ đại diện cho ý chí và nguyện vọng của cử tri đơn vị bầu ra mà còn là đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân cả nước; do vậy, muốn bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và thay mặt nhân dân quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước được sáng suốt, đại biểu Quốc hội có trách nhiệm tiếp công dân, tiếp xúc cử tri trước và sau mỗi kỳ họp Quốc hội, theo đúng các quy định của Hiến pháp và pháp luật.

Khoản 2, Điều 79 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của đại biểu và của Quốc hội; trả lời yêu cầu và kiến nghị của cử tri; theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo”.

Hoạt động tiếp xúc cử tri, tiếp công dân là một trong những trách nhiệm, nghĩa vụ của người đại biểu, thể hiện tính liên kết chặt chẽ giữa Quốc hội với cử tri cả nước, là biểu hiện sinh động mối quan hệ gắn bó giữa Nhà nước với công dân. Tiếp xúc với cử tri và tiếp công dân là tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, thu thập ý kiến kiến nghị của nhân dân đối với Quốc hội, cũng như báo cáo hoạt động của chính đại biểu, hoạt động của Quốc hội trước và sau mỗi kỳ họp với cử tri. Qua đó, đại biểu có trách nhiệm hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện việc khiếu nại, tố cáo và nhận đơn thư của công dân để chuyển đến cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật, qua đó, nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của đại biểu.

Việc tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri cả nước giúp Quốc hội thấu hiểu tâm tư nguyện vọng của nhân dân về các vấn đề mà cử tri quan tâm, lo lắng; các ý kiến của cử tri đa dạng và phong phú, có những vấn đề bức xúc mà cử tri đề nghị Quốc hội phải quan tâm giải quyết. Qua đó, giúp Quốc hội và các cơ quan nhà nước ban hành quyết sách đúng đắn, hợp lòng dân. Ngoài ra, “đại biểu Quốc hội còn có trách nhiệm phổ biến và vận động nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật”. Đây là một nhiệm vụ quan trọng để công dân nắm bắt được nội dung, tinh thần của Hiến pháp và pháp luật, hiểu biết về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của chính bản thân mình, để sống và làm việc trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

  1. Chủ tịch nước có vai trò như thế nào trong bảo vệ quyền con người?

Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Chủ tịch nước có những quyền hạn và có trách nhiệm tham gia vào hầu hết những vấn đề quan trọng của đất nước đều có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến quyền con người, quyền công dân.

 – Thẩm quyền tham gia trong lĩnh vực lập hiến, lập pháp: Chủ tịch nước công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh; đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày pháp lệnh được thông qua; nếu pháp lệnh đó vẫn được Ủy ban Thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì có quyền trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất. Trong thẩm quyền này, nếu pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội có dấu hiệu trái với các quy định về quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp và luật, Chủ tịch nước đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại.

– Thẩm quyền trong lĩnh vực hành chính tư pháp: quyết định đặc xá; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, công bố quyết định đại xá; quyền ân giảm án tử hình; quyết định cho nhập quốc tịch, thôi quốc tịch, trở lại quốc tịch hoặc tước quốc tịch Việt Nam.

– Thẩm quyền trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh quốc gia: Chủ tịch nước giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương.

  1. Chính phủ có vai trò như thế nào trong bảo vệ quyền con người?

Điều 94 Hiến pháp năm 2013 quy định: Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.

Hoạt động của Chính phủ có ý nghĩa quyết định trực tiếp đến việc bảo vệ, bảo đảm, thúc đẩy và phát triển quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân. Chính phủ vừa là cơ quan thực hiện quyền hành pháp vừa là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất để thực hiện chức năng hành pháp và chức năng hành chính nhà nước cao nhất. Nếu thiếu vai trò của Chính phủ thì Hiến pháp, luật, các nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ không thể thực thi trong cuộc sống. Khoản 6, Điều 96 Hiến pháp năm 2013 quy định: Chính phủ có nhiệm vụ “Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội”.

Cụ thể hóa Hiến pháp, Điều 21 Luật Tổ chức Chính phủ quy định: Chính phủ chịu trách nhiệm xây dựng và trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước quyết định các biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; quyết định những biện pháp cụ thể để bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân và tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền và thực hiện nghĩa vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

    – Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong lĩnh vực lập hiến, lập pháp và lập quy

+ Đề xuất xây dựng các dự án luật, dự thảo nghị quyết trình Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

+ Đề xuất, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và các chương trình, dự án về quyền con người, quyền công dân, các chính sách có liên quan trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội như chính sách dân tộc, tôn giáo… trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.

+ Ban hành kịp thời và đầy đủ các văn bản pháp quy thuộc thẩm quyền để thực hiện các quy định về quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp và luật; quyết định các biện pháp để tổ chức thi hành Hiến pháp, pháp luật, chỉ đạo triển khai và kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết, nghị định, chương trình công tác; lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền con người; bảo đảm điều kiện về cơ sở vật chất, nhân lực và các nguồn lực khác để thi hành Hiến pháp và pháp luật; thống nhất quản lý công tác hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, bồi thường nhà nước, thi hành án.

    – Quyết định những biện pháp, chính sách cụ thể trong quản lý nhà nước

Chính phủ có nhiệm vụ, thẩm quyền ban hành các chính sách cụ thể nhằm bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân trên tất cả các lĩnh vực của quản lý nhà nước như chính sách phát triển kinh tế để nâng cao đời sống mọi mặt của người dân; chính sách về tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; chính sách khoa học và công nghệ, chính sách về giáo dục và đào tạo; chính sách về quản lý y tế, chăm sóc sức khỏe của nhân dân và dân số; chính sách trong lĩnh vực xã hội; chính sách trong lĩnh vực dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo; trong lĩnh vực đối ngoại, hội nhập quốc tế, và trong lĩnh vực thanh tra, kiểm tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo…

+ Tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền và thực hiện nghĩa vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

Khoản 2, Điều 28 Hiến pháp năm 2013 quy định: Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Chính phủ có trách nhiệm tạo điều kiện pháp lý, đảm bảo tính công khai trong hoạt động của mình để người dân dễ dàng thực hiện các quyền dân chủ trực tiếp, dân chủ gián tiếp và cung cấp các thiết chế để thúc đẩy và bảo vệ quyền con người.

+ Phân công, điều hòa hoạt động các bộ/ngành trong bộ máy hành pháp nhằm thực thi Hiến pháp, pháp luật và các cam kết quốc tế về quyền con người, đối thoại và đấu tranh có hiệu quả trên lĩnh vực quyền con người.

Trong tổ chức và hoạt động của Chính phủ, để giúp Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, điều hành các công việc có liên quan tới vấn đề bảo đảm và đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người,  Ban Chỉ đạo về Nhân quyền đã được thành lập do một đồng chí Phó Thủ tướng Chính phủ là Trưởng ban với sự tham gia của đại diện lãnh đạo bộ, cơ quan có liên quan.

Để giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong việc tổ chức thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người, những điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia ký kết, phê chuẩn, Thủ tướng giao cụ thể cho các bộ/ngành chịu trách nhiệm theo dõi, tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người.

  1. Tòa án có vai trò như thế nào trong bảo vệ quyền con người?

Điều 102, Hiến pháp năm 2013 quy định: Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 cũng quy định: Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

– Tòa án kiểm soát hành vi lạm dụng quyền lực nhà nước, xâm phạm quyền con người, quyền công dân

Tòa án trừng phạt hành vi lạm dụng quyền lực nhà nước của cán bộ, công chức phạm tội xâm phạm sự đúng đắn trong hoạt động tố tụng và thi hành án; trừng phạt hành vi của cán bộ, công chức nhà nước khi thực hiện hành vi công vụ vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết gây thiệt hại quyền, lợi ích của cá nhân, công dân được quy định trong Bộ luật Dân sự và Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước; kiểm soát tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan, cán bộ và công chức trong quá trình thực thi công vụ; xem xét đề nghị của cơ quan quản lý nhà nước và quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính liên quan đến quyền con người, quyền cơ bản của công dân theo quy định của pháp luật; Tòa án phát hiện và kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản pháp luật trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để bảo đảm quyền con người và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức… Để bảo đảm công lý, quyền con người, bảo vệ các quyền và lợi ích của công dân, pháp luật quy định Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng (khoản 2, Điều 4 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).

– Tòa án bảo vệ các quyền và tự do dân chủ, tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của cá nhân, công dân

Tòa án không chỉ trừng trị hành vi phạm tội xâm hại đến quyền, tự do dân chủ, an toàn của cá nhân, công dân bằng việc áp dụng hình phạt mà còn có thẩm quyền xem xét, kết luận về tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của điều tra viên, kiểm sát viên, luật sư trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do cơ quan điều tra, điều tra viên, viện kiểm sát, kiểm sát viên thu thập; do luật sư, bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác cung cấp (khoản 3, Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014).

– Tòa án bảo vệ người vô tội

Tòa án được trao thẩm quyền bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, căn cứ vào kết quả tranh tụng. Tòa án là cơ quan duy nhất được trao thẩm quyền ra bản án, quyết định việc có tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, áp dụng biện pháp tư pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân, trả tự do cho người không có tội.

– Tòa án khôi phục lại các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, công dân

Bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong hoạt động xét xử trước hết là ngăn ngừa, trừng trị những hành vi xâm hại quyền. Trong trường hợp quyền và lợi ích của cá nhân, công dân đã bị xâm hại, cá nhân, công dân có quyền khởi kiện tại Tòa án để yêu cầu khôi phục danh dự và bồi thường thiệt hại. Do vậy, xét xử không chỉ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, công dân, ngăn chặn, loại bỏ hành vi xâm hại mà còn bao hàm cả mục đích khôi phục lại những quyền con người, quyền công dân đã bị xâm hại. Hoạt động áp dụng pháp luật khôi phục quyền con người, quyền công dân bằng cách quyết định các biện pháp, cách thức và nội dung cụ thể để buộc các chủ thể đã xâm hại quyền con người phải thực hiện.

Tòa án có thẩm quyền quyết định buộc các cơ quan nhà nước đã gây thiệt hại phải khôi phục lại những quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, công dân bị hành vi thực thi công vụ gây ra trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, trong hoạt động tố tụng hình sự, trong hoạt động tố tụng dân sự, tố tụng hành chính và trong hoạt động thi hành án hình sự, thi hành án dân sự bằng hoạt động giải quyết bồi thường thiệt hại theo đúng các quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường Nhà nước.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *