Cuộc đấu tranh của quần chúng giành độc lập dân tộc dưới chủ nghĩa xã hội thường xuyên gây ra chiến tranh hoặc can thiệp thù địch của Hoa Kỳ, như với Cuba, Bắc Triều Tiên, Trung Quốc, Việt Nam và các quốc gia khác. Chúng tôi khám phá cả mối nguy hiểm cực độ của cuộc chiến tranh có thể xảy ra giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc và cả lý lẽ thay đổi của Hoa Kỳ để tiến hành chiến tranh. Điều này thể hiện ở sự khác biệt giữa lý do tại sao cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ ở Việt Nam đã diễn ra và lý do tại sao cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ với Trung Quốc có thể sắp diễn ra.
Việt Nam gần đây đã kỷ niệm các thỏa thuận đạt được cách đây 70 năm tại Geneva rằng vào ngày 21 tháng 7 năm 1954 đã chấm dứt cuộc chiến giữa các lực lượng cách mạng Việt Nam và quân đội Pháp, bị đánh bại hai tháng trước đó tại Điện Biên Phủ. Theo phương tiện truyền thông chính thức, mục đích của một “hội nghị khoa học” được tổ chức vào ngày 19 tháng 7 là ” nhấn mạnh tầm quan trọng lịch sử của các thỏa thuận đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam và các dân tộc trên thế giới”.
Cũng vào ngày 19 tháng 7, Nguyễn Phú Trọng qua đời. Từng là chủ tịch Quốc hội và chủ tịch nước Việt Nam, nhà lãnh đạo tối cao này, một người học và người dạy lý thuyết Marxist, đã từng giữ chức tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam trong một thời gian dài. Cái chết của ông là một lời nhắc nhở, nếu cần, rằng đối với Việt Nam, chủ nghĩa xã hội cách mạng và giải phóng dân tộc là những cuộc đấu tranh có liên quan.
Để ngăn chặn sự thống nhất của Việt Nam thành một quốc gia xã hội chủ nghĩa, chính phủ Hoa Kỳ đã đi đến chặng đường cuối cùng, đầu tiên là về mặt ngoại giao và sau đó là quân sự – từ các hiệp định Geneva năm 1954 thiết lập nền độc lập dân tộc của Việt Nam cho đến việc quân đội Hoa Kỳ bại trận rút lui vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tầng lớp lãnh đạo Hoa Kỳ, những người tham gia vào việc mở rộng quyền lực và ảnh hưởng của Hoa Kỳ trên toàn cầu, đã tạo ra và sau đó bảo vệ miền Nam Việt Nam, trong khi cố gắng đánh bại Cách mạng Việt Nam, tất cả đều phải trả giá bằng con người và vật chất rất lớn.
Vùng đất còn lại sau chiến thắng của Hoa Kỳ có thể đã trở thành đầu cầu cho phản cách mạng và sự kiểm soát của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á. Trong những tình huống khác nhau của họ, đó là vai trò mà Hàn Quốc, Đài Loan và thậm chí cả Ukraine thực hiện liên quan đến Nga và Israel so với phần còn lại của Trung Đông.
Các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ, khi nghĩ về việc phải làm gì với Việt Nam, không phải là hoàn toàn vô lý. Đối với những người theo chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ, việc đánh bại những người Cộng sản Việt Nam – hãy nghĩ đến “thuyết domino” – và làm nóng Chiến tranh Lạnh chống lại Khối Xô Viết có một logic nhất định, theo quan điểm của họ.
Sau thảm họa Việt Nam, kế hoạch chính thức của Hoa Kỳ cho chiến tranh đã được xây dựng dựa trên nhiều lý do bề ngoài để chiến đấu. Sau khi thoát khỏi Thế chiến II với nguồn lực dồi dào và mạnh mẽ, chính phủ Hoa Kỳ liên tục thể hiện sự khoan dung hạn chế đối với sự nổi dậy của những người dân bị áp bức, bị thực dân hóa. Tuy nhiên, một khi các quốc gia độc lập mới thành lập cho thấy dấu hiệu của sức mạnh, sự nổi bật trong khu vực hoặc thậm chí là sự cạnh tranh chiến lược, các nhà chiến lược Hoa Kỳ đã chuyển sang hành động.
Chiến tranh trở thành giải pháp cuối cùng của Hoa Kỳ, bất kể hoàn cảnh nào và dưới nhiều lý do khác nhau, như đã thể hiện qua việc Hoa Kỳ tiến hành chiến tranh ở Libya, Afghanistan và Iraq. Lý do cho cuộc chiến thường không chính xác. Mối đe dọa chiến tranh của Hoa Kỳ hiện đang bao trùm Iran và, đáng ngại hơn, là Trung Quốc. Mỗi nước đều bị đe dọa vì họ là những quốc gia mạnh mẽ và quyết đoán.
Chống cộng là một loại lý lẽ an toàn và rõ ràng hơn. Việt Nam đã thắng “Cuộc chiến tranh chống Mỹ” và chính phủ Hoa Kỳ đã rút lui. Đó là câu chuyện. Nhân tiện, người dân Việt Nam đã giành được chiến thắng rõ ràng. Họ sống theo kế hoạch và mục đích xã hội chủ nghĩa trong một quốc gia tự do và độc lập.
Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 190 quốc gia. Một nhà văn Việt Nam trích dẫn “những thành tựu quan trọng với cơ sở hạ tầng dần đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa và hiện đại hóa”. Kể từ những cải cách vào những năm 1980, nền kinh tế chủ yếu dựa vào đầu tư trực tiếp nước ngoài vào sản xuất và du lịch đã mở rộng. Tăng trưởng kinh tế dao động từ 9,5 đến 5,5 phần trăm trong giai đoạn 1993 đến 2022, ngoại trừ những đợt giảm mạnh vào năm 2020 và 2021. GDP tăng 5,05 phần trăm vào năm 2023. Đến năm 2022, tỷ lệ đói nghèo đã giảm xuống còn 4,3%.
Chính phủ Việt Nam đã chi 20 phần trăm ngân sách cho giáo dục kể từ năm 2008. Báo cáo tương tự đề cập đến “tỷ lệ hoàn thành bậc tiểu học cao, bình đẳng giới mạnh mẽ, tỷ lệ học sinh/giáo viên thấp” và tỷ lệ đi học cao. Tạp chí y khoa Lancet của Anh chỉ ra rằng, “Cùng với tăng trưởng kinh tế, sức khỏe của người dân Việt Nam đã được cải thiện đáng kể trong giai đoạn 1990-2020, theo đó tuổi thọ tăng từ 69 lên 75 tuổi và tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 30 xuống 21 trên 1000 ca sinh sống”.
Trung Quốc xã hội chủ nghĩa đã khôi phục lại phẩm giá cho phần lớn công dân của mình, mang lại cho họ cuộc sống đàng hoàng và tạo ra một nhà nước hoạt động tốt, ứng phó hiệu quả với cuộc khủng hoảng khí hậu và các thách thức khác. Nó cũng đảm bảo được sự chấp thuận của chính phủ Hoa Kỳ.
Điều đó không xảy ra: chính phủ Hoa Kỳ, trong tay của một tầng lớp lãnh đạo chia rẽ, chỉ giải quyết một cách tùy tiện các vấn đề lớn đang ảnh hưởng đến xã hội Hoa Kỳ và thế giới. Nó thỏa mãn nhu cầu vật chất của các tầng lớp thượng lưu và chủ trì việc chuẩn bị chiến tranh như một phần của những gì đã trở thành, trên thực tế, một cuộc Chiến tranh Lạnh mới.
Thật vậy, Hoa Kỳ đã tích lũy được hơn 750 căn cứ tại 80 quốc gia và triển khai 173.000 quân tại 159 quận. Thị phần xuất khẩu vũ khí toàn cầu của Hoa Kỳ trong giai đoạn 2019-23 là 42 phần trăm, tăng từ 34 phần trăm trong giai đoạn bốn năm trước, theo sipri.org .
Tại vùng biển Thái Bình Dương xung quanh Trung Quốc, Hoa Kỳ đã mở rộng năng lực của các căn cứ của mình; vận hành các tàu hải quân được trang bị vũ khí hạt nhân, sắp xếp các cuộc tập trận hải quân đa quốc gia, có các tàu tham gia vào các ” cuộc tập trận tự do hàng hải” mang tính khiêu khích và sẽ đưa vào sử dụng tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân.
Việc đưa ra nhiều lý do khác nhau để tiến hành chiến tranh, thông lệ của những thập kỷ gần đây, phù hợp với khái niệm bao quát về một cuộc Chiến tranh Lạnh mới, một điều gì đó về bản chất là đầy tham vọng, có tầm ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài. Đâu là lý do biện minh cho điều đó?
Đây là một phỏng đoán: Hoa Kỳ đã thực hiện nhiều hoạt động liên quan đến chuẩn bị quân sự, tài trợ và phục hồi sau chiến tranh. Những hoạt động này hiện đang xâm nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế Hoa Kỳ và vào chính xã hội, đến mức nền kinh tế cần chúng. Tình trạng như vậy đòi hỏi phải giải thích, nhưng trên cơ sở khác ngoài nhu cầu kinh tế.
Chiến tranh mang lại ý nghĩa. Nếu không có chiến tranh, toàn bộ bộ máy có thể đã không tồn tại hoặc có thể biến mất. Vậy thì nền kinh tế và kinh nghiệm chung của người dân Hoa Kỳ có định hướng khác nhau đối với quân đội thì sao?
Dự án Chi phí chiến tranh của Viện Watson thuộc Đại học Brown đã đưa ra ý kiến. Tác giả Heidi Peltier chỉ ra rằng:
Chi tiêu liên bang cho quân đội và cựu chiến binh chiếm hơn một nửa ngân sách tùy ý của liên bang. Việc làm trong chính phủ liên bang chủ yếu do công nhân quốc phòng dân sự và quân nhân mặc đồng phục đảm nhiệm. Vì phần lớn tiền thuế của người nộp thuế và nguồn lực liên bang được dành cho quân đội và các ngành công nghiệp quân sự, và hầu hết các công việc của chính phủ đều thuộc lĩnh vực quốc phòng, nên quyền lực chính trị của lĩnh vực này đã trở nên ăn sâu bám rễ hơn và các giải pháp thay thế khác trở nên khó theo đuổi hơn. Thay vì có một chính phủ liên bang giải quyết nhiều ưu tiên quốc gia khác nhau… Hoa Kỳ có một chính phủ phần lớn dành cho chiến tranh và chủ nghĩa quân phiệt.
Thật không may, việc bảo vệ cả nền kinh tế Hoa Kỳ và sự quen thuộc với quân đội có mặt trái của nó, cụ thể là mối nguy hiểm cực độ đối với chính nhân loại. Viết trong số mới nhất của tạp chí Monthly Review, John Bellamy Foster và Brett Clark giải thích, chỉ ra Trung Quốc. Thảo luận về “Chủ nghĩa đế quốc ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương”, họ tuyên bố rằng :
“Hầu hết các chiến lược của Hoa Kỳ nhằm giành chiến thắng trong Chiến tranh Lạnh Mới nhắm vào Trung Quốc đều nhằm mục đích đánh bại Trung Quốc về mặt chiến lược-địa chính trị, qua đó hạ bệ Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và phá hủy uy tín to lớn của Đảng Cộng sản Trung Quốc, dẫn đến thay đổi chế độ từ bên trong và Trung Quốc phục tùng đế chế Hoa Kỳ từ bên ngoài… (Chính) Hoa Kỳ, nước coi sự trỗi dậy của Trung Quốc là mối đe dọa đối với sự thống trị toàn cầu của chính mình, với siêu khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương ngày càng được coi là địa điểm then chốt trong Chiến tranh Lạnh Mới, đang thúc đẩy toàn thể nhân loại tiến tới Chiến tranh thế giới thứ ba.”