Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác tin bài của nhanquyenvn.org, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "nhanquyenvn.org". Tìm kiếm ngay
21585

Đống đổ nát của đế chế

Bài báo của tác giả Rebecca Gordon, nữ giáo sư giảng dạy tại Đại học San Francisco được ông Ngô Mạnh Hùng biên dịch cho thấy thảm họa, ảnh hưởng của dịch bệnh đến đế quốc hùng mạnh ra sao.
===
Làm thế nào bạn có thể biết khi nào đế chế của bạn đang sụp đổ? Một số dấu hiệu thực sự có thể nhìn thấy qua cửa sổ phía trước căn hộ của tôi ở San Francisco.
Bên kia đường, tôi có thể thấy một tập hợp các tấm bạt, vỏ thùng giấy và cột điện (cùng với một thùng rác cũ vốn là của tôi) được sử dụng để xây dựng một căn lều tạm trên vỉa hè. Bên cạnh dinh thự đó là một cây thánh giá bằng gỗ được trang trí với một chuỗi đèn Giáng sinh trắng và một dải ruy băng đỏ – đó chính là đài tưởng niệm chính người phụ nữ đã xây dựng công trình kiến trúc nguy nga đó, cô ấy đã chết bên trong lều vào đầu tuần này. Chúng tôi không biết – và có lẽ sẽ không bao giờ biết – điều gì đã giết cô ấy: đại dịch hoành hành khắp California? Một cơn đau tim? Sử dụng quá liều heroin hoặc fentanyl?
Phía sau đinh thự riêng đó của cô ấy và những ngôi nhà tương tự là một hàng rào bao quanh sân chơi trống vắng của trường tiểu học và trung học cơ sở Horace Mann/Buena Vista dành cho trẻ em nghèo. Giống như căn lều đó, ngôi trường bây giờ cũng vậy, trống rỗng, đóng cửa vì đại dịch.
Tôi không biết cả gia đình của những đứa trẻ học trường đó giờ đã đi đâu, trước đó họ sống trong các phòng tập thể dục như một sự thay thế cho việc ngủ trên đường. Chúng thường ăn sáng và ăn tối ở đó hàng ngày, được phục vụ trên cùng một vỉa hè bởi một cặp phụ nữ Latina lớn tuổi, những người dường như đã ký hợp đồng với khu học chánh để nấu ăn cho các gia đình sử dụng trường học kiêm mái ấm đó. Tôi cũng không biết, bất kỳ ai trong số họ bây giờ đang làm gì, vì tiền hay vì thức ăn.
Chỉ cần xuống dãy lều, tôi có thể thấy số người vô gia cư đã nhiều lên mỗi ngày trong tuần kể từ đầu tháng 12. Che mặt và giãn cách xã hội, họ kiên nhẫn chờ đợi để băng qua đường, từng người một, để thực hiện kiểm tra Covid tại một trạm do Cơ quan Y tế San Francisco thực hiện. Con phố nhỏ của tôi có vẻ là một sự lựa chọn kỳ quặc cho một dịch vụ như vậy, vì – đặc biệt là bây giờ khi trường học đã đóng cửa – nó không dành cho người đi bộ. Thật vậy, một đại diện của Lực lượng Đặc nhiệm Latino, một tổ chức tự phát được thành lập để thông báo cho người dân Latinh trong thành phố về các diễn biến của Covid đã nói với tờ báo Mission Local của chúng tôi rằng: “Các phòng khám y tế công cộng nhỏ như phòng khám này luôn nói rằng họ muốn tiếp cận nhiều hơn, nhưng tôi thực sự nghĩ rằng họ không muốn điều đó”. Anh ta tin rằng họ đã chọn một con phố ít người buôn bán như Bartlett này là để nó luôn nằm trong tầm ngắm, “Họ không muốn cứu giúp, bởi vì trạm này không có công suất lớn”.
Những điểm tham quan địa phương này có liên quan gì đến một đế chế đang sụp đổ? Chúng là những dấu hiệu cho thấy một số yếu tố tương tự các yếu tố đã từng làm rạn nứt đế chế La Mã vào năm 476 CN đang hiện diện rõ ràng ở đất nước này ngày nay – ngay cả ở California, một trong những bang giàu có nhất của nó. Tôi đang nói về các hiện tượng như bất bình đẳng kinh tế tổng thể; chi tiêu quá mức cho việc mở rộng quân đội; tham nhũng chính trị; chia rẽ văn hóa và chính trị sâu sắc; và, ồ phải, những kẻ man rợ ở cổng. Tôi sẽ chuyển sang những yếu tố đó trong giây lát nữa, nhưng trước tiên hãy để tôi đưa ra một ý bảo vệ ngắn gọn đối với ý kiến cho rằng chủ nghĩa đế quốc và một đế quốc Mỹ thực sự tồn tại.
CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC – ĐIỀU ĐÓ CÓ NGHĨA LÀ GÌ?
Còn nguồn nào tốt hơn cho định nghĩa về chủ nghĩa đế quốc hơn là Từ điển Bách khoa toàn thư Britannica, bản tóm tắt kiến thức được in lần đầu tiên vào năm 1768 tại đất nước đã trở thành đế chế vĩ đại của thế kỷ 19 và nửa đầu của thế kỷ 20? Theo đó, “chủ nghĩa đế quốc biểu hiện chính sách, thực hành của nhà nước hoặc chủ trương mở rộng quyền lực và thống trị, đặc biệt bằng cách giành lấy lãnh thổ trực tiếp hoặc bằng cách giành quyền kiểm soát kinh tế và chính trị đối với các khu vực khác. Hơn nữa, chủ nghĩa đế quốc luôn liên quan đến việc sử dụng quyền lực, dù là quân sự hay kinh tế hoặc một số hình thức tinh vi hơn”. Nói cách khác, khái niệm này biểu thị nỗ lực của một quốc gia nhằm kiểm soát và thu lợi ích kinh tế từ các vùng đất bên ngoài biên giới của mình.
Trong bối cảnh đó, “chủ nghĩa đế quốc” chính là một mô tả chính xác về quỹ đạo của lịch sử Hoa Kỳ, bắt đầu với sự bành trướng của đất nước này trên khắp Bắc Mỹ, đánh cắp lãnh thổ và tài nguyên từ các vùng đất của thổ dân và diệt chủng dân số của họ. Hoa Kỳ mới độc lập đã nhanh chóng mở rộng, bắt đầu với thương vụ mua lại Louisiana năm 1803 từ Pháp. Thỏa thuận đó, có hiệu quả tăng gấp đôi lãnh thổ ban đầu của nó, bao gồm hầu hết những gì sẽ trở thành bang Louisiana ngày nay. Sau đó là việc mở rộng ra các bang: New Mexico, Texas, Arkansas, Missouri, Oklahoma, Kansas, Colorado, Iowa, Nebraska, Wyoming, Minnesota, Bắc và Nam Dakota, Montana, và thậm chí cả một phần của những tỉnh ngày nay là Alberta và Saskatchewan của Canada.
Tất nhiên, Pháp không thực sự kiểm soát phần lớn vùng đất đó, ngoài thành phố cảng New Orleans và các vùng lân cận của nó. Những gì Washington mua thực tế là “mua quyền” cướp đoạt phần còn lại của khu vực rộng lớn đó từ các dân tộc bản địa sống ở đây, cho dù là theo hiệp ước, di chuyển dân số hay các cuộc chiến tranh chinh phục và tiêu diệt. Mục tiêu đầu tiên của thỏa thuận đó là giải quyết đất đai để mở rộng ngành kinh doanh trồng bông sinh lợi cực kỳ lớn, động cơ kinh tế có từ thời sơ khai của lịch sử Hoa Kỳ, dĩ nhiên là sử dụng lao động nô lệ. Sau đó, nó cung cấp nguyên liệu thô cho ngành công nghiệp dệt đang được công nghiệp hóa nhanh chóng của Anh, điều này đã thúc đẩy sự bành trướng đế quốc của đất nước này.
Việc mở rộng lãnh thổ của Hoa Kỳ tiếp tục được tiếp tục, vào năm 1819, Florida được mua lại từ Tây Ban Nha và vào năm 1845, Texas bị sáp nhập cưỡng bức khỏi Mexico (cũng như các vùng khác của California một năm sau đó). Tất cả những thương vụ mua lại đó đều phù hợp với điều mà biên tập viên tờ báo John O’Sullivan sẽ sớm gọi là biểu hiện của “đất nước định mệnh” – tức là rõ ràng và hiển nhiên – kiểm soát toàn bộ lục địa.
Cuối cùng, chủ nghĩa bành trướng đó đã vượt ra khỏi những biên giới lục địa đó, khi đất nước này tiếp tục nuốt chửng Philippines, Hawaii, Khu kênh đào Panama, Quần đảo Virgin, Puerto Rico, Guam, Samoa thuộc Mỹ và Quần đảo Mariana, 5 cái tên cuối cùng trong số đó đến nay vẫn là lãnh thổ thuộc địa của Hoa Kỳ. (Cư dân thủ đô của quốc gia, nơi tôi lớn lên, chỉ đúng một phần khi chúng ta thường gọi Washington, DC, là “thuộc địa cuối cùng”).
CÁC HỌC THUYẾT CỦA HOA KỲ TỪ MONROE ĐẾN TRUMAN VÀ GW.BUSH
Ảnh hưởng kinh tế, quân sự và chính trị của Hoa Kỳ từ lâu đã vượt xa những tài sản được quốc tế công nhận và các tổng thống khác nhau đã đưa ra một loạt “học thuyết” để hợp pháp hóa tầm ảnh hưởng của một đế quốc như vậy.
Học thuyết Monroe: là học thuyết đầu tiên trong số các học thuyết của Hoa Kỳ, được giới thiệu vào năm 1823 trong bài phát biểu áp chót về Liên bang của Tổng thống James Monroe. Ông ta cảnh báo các quốc gia châu Âu rằng, trong khi Hoa Kỳ xác lập các thuộc địa hiện có ở châu Mỹ, nó sẽ không cho phép thành lập bất kỳ sở hữu mới nào của ai khác.
Tổng thống Teddy Roosevelt sau đó đã phát triển thêm một hệ quả vào học thuyết của Monroe bằng cách thiết lập quyền can thiệp của Washington vào bất kỳ quốc gia nào ở châu Mỹ mà theo quan điểm của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ là không được điều hành đúng cách. Ông ta nói trong một thông điệp năm 1904 gửi tới Quốc hội: “Hành động sai trái kéo dài, có thể ở châu Mỹ, cũng như những nơi khác, cuối cùng cần phải có sự can thiệp của một quốc gia văn minh nào đó”. Ông ta gợi ý Hoa Kỳ có thể tự cho rằng mình chỉ bị ép buộc vào vai trò đó: “tuy nhiên chỉ là miễn cưỡng, trong những trường hợp trắng trợn của các hành động sai trái hoặc bất lực như vậy, đối với việc thực thi quyền lực của cảnh sát quốc tế”. Trong phần tư đầu tiên của thế kỷ 20, hệ quả Roosevelt đó sẽ được sử dụng để biện minh cho việc Hoa Kỳ chiếm đóng Cuba, Cộng hòa Dominica, Haiti và Nicaragua.
Học thuyết Truman: em họ của Teddy, Tổng thống Franklin D.Roosevelt sau này, đã công khai từ bỏ Học thuyết Monroe và hứa sẽ có thái độ từ bỏ Mỹ Latinh, nơi được gọi là Khu vực Chính sách Láng giềng Tốt. Tuy nhiên, điều đó không tồn tại lâu. Trong bài phát biểu trước Quốc hội năm 1947, tổng thống tiếp theo, Harry S.Truman, đã đưa ra cái được gọi là Học thuyết Truman, học thuyết này sẽ làm nền tảng cho chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ít nhất là cho đến khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991. Nó cho rằng các lợi ích an ninh quốc gia của Hoa Kỳ đòi hỏi phải “ngăn chặn” các quốc gia Cộng sản hiện có và ngăn chặn sự lan rộng hơn nữa của Chủ nghĩa Cộng sản ở bất cứ đâu trên Trái đất.
Nó gần như ngay lập tức dẫn đến sự can thiệp vào các cuộc đấu tranh nội bộ của Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ và sau đó củng cố sự ủng hộ của Washington đối với các nhà độc tài và các chế độ đàn áp từ El Salvador đến Indonesia. Nó biện minh cho các cuộc đảo chính do Mỹ hậu thuẫn ở những nơi như Iran, Guatemala và Chile. Nó dẫn Hoa Kỳ vào một cuộc chiến vô ích ở Triều Tiên và thất bại thảm hại ở Việt Nam.
Việc chuyển sang chủ nghĩa chống cộng sản sau Thế chiến thứ hai sẽ đi kèm với một loại chủ nghĩa thực dân mới. Thay vì trực tiếp sát nhập các lãnh thổ để khai thác lao động rẻ và cướp đoạt tài nguyên thiên nhiên, theo mô hình “thực dân mới” này, Hoa Kỳ – và các tổ chức đa phương vĩ đại của thời hậu chiến: Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế – sẽ nhằm vào mục tiêu kiểm soát nền kinh tế của các quốc gia nghèo. Đổi lại các khoản viện trợ – hoặc các khoản vay cho giới tinh hoa các quốc gia đó bỏ túi riêng nhưng người nghèo phải hoàn trả – các quốc gia đó sẽ đáp ứng các yêu cầu về “điều chỉnh cơ cấu” của hệ thống kinh tế của họ: tư nhân hóa các dịch vụ công như năng lượng, nước sạch và các tiện ích khác, đồng thời cắt giảm các dịch vụ con người như y tế và giáo dục, để trao cho các tập đoàn Mỹ hoặc đa quốc gia. Đến lượt mình, những “điều chỉnh” như vậy lại cho phép các quốc gia sử dụng các khoản vay mới.
Học thuyết Bush: Bạn có thể nghĩ rằng sự sụp đổ của đế chế Liên Xô và sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh sẽ tạo cơ hội cho Washington rút lui khỏi việc khai thác tài nguyên và các cuộc can thiệp quân sự, cũng như vai trò đi kèm dường như vô tận của CIA. Bạn có thể tưởng tượng rằng đất nước được gọi là “siêu cường duy nhất” này cuối cùng sẽ cân nhắc để thiết lập các mối quan hệ mới và hoà đồng với các quốc gia khác trên hành tinh nhỏ bé này của chúng ta. Tuy nhiên, đúng lúc đó thì dường như để ngăn chặn ngay cả khả năng mờ nhạt nhất cho bất kỳ sự thay đổi nào như vậy thì xảy ra vụ “tấn công khủng bố 11/9”, giúp cho Tổng thống George W. Bush có cơ hội quảng bá học thuyết của mình.
Để tách khỏi chủ nghĩa đa phương thời hậu chiến, Học thuyết Bush đã vạch ra niềm tin tân bảo thủ rằng, với tư cách là siêu cường duy nhất trong một thế giới được cho là “đơn cực” hiện nay, Hoa Kỳ có quyền thực hiện hành động quân sự đơn phương bất kỳ lúc nào họ tin rằng phải đối mặt với mối đe dọa nào đó từ bên ngoài, của bất kỳ sắp xếp nào có thể tưởng tượng ra. Kết quả: 20 năm “chiến tranh vĩnh viễn” thảm khốc và một tổ hợp công nghiệp-quân sự đã ăn sâu vào nền kinh tế quốc dân của chúng ta. Mặc dù chính sách đối ngoại của Donald Trump đôi khi đi theo hướng chủ nghĩa biệt lập khi từ chối các hiệp ước, giao thức quốc tế và trách nhiệm tổ chức, nhưng nó vẫn chứng tỏ mình là hậu duệ trực tiếp của Học thuyết Bush. Rốt cuộc, chính Bush là người đầu tiên đưa Hoa Kỳ ra khỏi Hiệp ước chống tên lửa đạn đạo và bác bỏ Nghị định thư Kyoto về chống biến đổi khí hậu.
Học thuyết của ông ta ngay lập tức tạo tiền đề cho cuộc xâm lược và chiếm đóng thảm khốc Afghanistan, Chiến tranh Iraq thậm chí còn thảm khốc hơn, và sự mở rộng quá mức ngày nay của sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ, công khai và bí mật, trên thực tế ở mọi nơi trên thế giới. Và bây giờ, để thực hiện những tưởng tượng về kẻ thù của Donald Trump, ngay cả trong không gian vũ trụ.
ĐẾ CHẾ SUY TÀN
Nếu bạn cần bằng chứng rằng siêu cường cuối cùng, đế chế của chính chúng ta, thực sự đang sụp đổ, hãy xem xét năm chúng ta vừa trải qua, chưa kể vài tuần đầu tiên của năm 2021. Tôi đã đề cập ở trên một số yếu tố góp phần vào sự sụp đổ của đế chế La Mã lừng danh vào thế kỷ thứ năm. Công bằng mà nói, một số điều tương tự hiện đang hiển hiện ở nước Mỹ thế kỷ XXI. Dưới đây là bốn minh chứng rõ ràng:
1. Bất bình đẳng kinh tế kỳ cục: Kể từ khi Tổng thống Ronald Reagan bắt đầu cuộc chiến lâu dài của Đảng Cộng hòa đối với các công đoàn và người dân lao động, bất bình đẳng kinh tế đã gia tăng đều đặn ở đất nước này, bị nhấn chìm bởi những cú sốc khủng khiếp như Đại suy thoái 2007-2008 và tất nhiên, bởi thảm họa Covid -19. Chúng ta đã chứng kiến liên tục 40 năm giảm thuế cho những người giàu có, trong khi trì trệ lương cho phần dân số còn lại chúng ta (bao gồm cả việc mức lương tối thiểu liên bang đã không thay đổi kể từ năm 2009) và các cuộc tấn công cả vào các chương trình như TANF (phúc lợi) và SNAP (phiếu thực phẩm), những thứ theo nghĩa đen là chỉ để giữ cho những người nghèo sống sót khỏi chết đói.
Người La Mã dựa vào lao động nô lệ cho những thứ cơ bản như thực phẩm và quần áo. Đất nước Hoa Kỳ thì phụ thuộc vào các công nhân nông trại và nhà máy thực phẩm bị khai thác, nhiều người trong số họ không có khả năng đòi hỏi nhiều hơn hoặc tốt hơn vì họ đến Hoa Kỳ mà không được phép. Quần áo (cực kỳ rẻ) của chúng ta thì hầu hết được sản xuất bởi những người bị bóc lột ở các nước khác.
Đại dịch chỉ phơi bày điều mà rất nhiều người đã biết: cuộc sống của hàng triệu lao động nghèo ở đất nước này đang ngày càng trở nên bấp bênh và tuyệt vọng hơn bao giờ hết. Khoảng cách giữa người giàu và người nghèo ngày càng mở rộng đến mức chưa từng thấy. Thật vậy, vì trong khi hàng chục triệu người đã rơi vào cảnh nghèo đói kể từ khi đại dịch bắt đầu, thì theo tờ Guardian cho biết 651 tỷ phú của đất nước này đã tăng thêm khối tài sản tập thể của họ thêm 1,1 nghìn tỷ USD, nhiều hơn cả mức 900 tỷ đô la cứu trợ mà Quốc hội mới vừa thông qua trong dự luật chi tiêu vào cuối tháng 12 năm 2020.
Một nền kinh tế như của chúng ta, vốn phụ thuộc quá nhiều vào chi tiêu của người tiêu dùng, không thể tồn tại trong tình trạng bần cùng hóa sâu sắc của quá nhiều người. 651 tỷ phú đó sẽ không mua đủ đồ chơi để đào chúng ta ra khỏi cái hố này.
2. Bội chi cho quân đội: Vào cuối năm 2020, Quốc hội đã bác bỏ quyền phủ quyết của Trump đối với Đạo luật Ủy quyền Quốc phòng hàng năm, đạo luật này đã cung cấp 741 tỷ đô la đáng kinh ngạc cho quân đội trong năm tài chính này. (Nhân tiện, Trump đưa ra sự phủ quyết đó cũng không phải vì muốn giữ lại số tiền khổng lồ bị chiếm đoạt giữa một đại dịch tàn khốc, mà là do không đồng ý các điều khoản của dự luật về việc đổi tên các căn cứ quân sự hiện đang vinh danh các tướng lĩnh Liên minh miền nam, cùng những thứ không liên quan khác). Trong dự luật chi tiêu năm tài khóa mới trị giá 2,3 nghìn tỷ đô la này, 741 tỷ chi cho quốc phòng đó chiếm tới 1/3 tổng ngân sách, trong đó Quốc Hội duyệt cho Lầu Năm Góc 696 tỷ đô la, còn lại là chi cho các cơ quan quốc phòng khác.
Tất cả số tiền đó dành cho “an ninh” có thể là hợp lý, nếu nó thực sự làm cho cuộc sống của chúng ta an toàn hơn. Nhưng trên thực tế, các ưu tiên của liên bang hầu như là lấy thức ăn từ miệng trẻ em ra để nuôi sống những con quái vật của tổ hợp công nghiệp – quân sự và những cuộc chiến không hồi kết đi kèm với nó. Ngay cả trước khi xảy ra đại dịch, hơn 10% gia đình ở Mỹ đã thường xuyên gặp phải tình trạng mất an ninh lương thực. Bây giờ, tỷ lệ đó đã là một phần tư dân số.
3. Tham nhũng sâu đến mức phá hoại hệ thống chính trị: Chỉ cần nói về người đàn ông trị vì ở Washington 4 năm qua, với hứa hẹn sẽ “rút cạn vùng đầm lầy” đã chủ trì một trong những chính quyền tham nhũng nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Cho dù đó là hành vi tự xử lý trắng trợn (như chuyển tiền của chính phủ cho các doanh nghiệp của chính ông ta); sử dụng các nguồn lực của chính phủ để có thể tạo ra sự tái đắc cử của ông (bao gồm cả việc sử dụng Nhà Trắng làm nơi tổ chức các hoạt động của Đảng Cộng hòa và bài phát biểu nhận chức nếu có của ông ta); dung túng cho cấp dưới tham nhũng như Bộ trưởng Thương mại Wilbur Ross; hoặc đang cân nhắc về việc tự ân xá. Chính quyền Trump đã thực sự đặt ra tiêu chuẩn cao cho bất kỳ người nào tham vọng trong tương lai đạt tới danh hiệu “tổng thống tham nhũng nhất”.
Một vấn đề của tham nhũng đó là làm suy yếu tính hợp pháp của chính phủ trong tâm trí của những người bị quản lý. Nó làm cho công dân không sẵn sàng tuân thủ luật pháp, đóng thuế hoặc hành động vì lợi ích chung, chẳng hạn như đeo khẩu trang và cách ly xã hội trong thời kỳ đại dịch. Nó xé nát sự gắn kết xã hội từ trên xuống dưới.
Tất nhiên, hành vi tham nhũng nguy hiểm nhất của Trump – một trong những hành vi mà ông ta được ủng hộ bởi các thành viên được bầu và bổ nhiệm nổi bật nhất trong chính phủ của ông ta và phần lớn đảng Cộng hoà – là chiến dịch bác bỏ kết quả cuộc bầu cử năm 2020. Sự cổ xúy và gây hoài nghi về việc đảng Dân chủ đã đánh cắp cuộc bầu cử đó đã làm suy giảm niềm tin vào tính hợp pháp của chính phủ, đến mức có tới 68% đảng viên Cộng hòa tin rằng cuộc bỏ phiếu đã bị gian lận để bầu ra Joe Biden. Ở mức “tốt nhất”, Trump đã tạo tiền đề cho việc đảng Cộng hòa đàn áp cuộc bỏ phiếu trong các cộng đồng da màu. Tệ nhất, ông ta đã đầu độc quá trình bầu cử đến mức một thiểu số đáng kể người Mỹ tới đây sẽ không bao giờ chấp nhận một cuộc bầu cử tự do và công bằng nào nếu ứng cử viên của họ thua cuộc.
4. Một đất nước trong cuộc xung đột ngày càng sâu sắc: Tư tưởng về quyền tối cao của người da trắng đã lây nhiễm trong toàn bộ lịch sử của đất nước này, bắt đầu với sự diệt vong gần như tuyệt chủng của các dân tộc bản địa của nó. Hiến pháp, trong khi bảo đảm nhiều quyền cho người da trắng, đã tiến hành luật hóa việc nô lệ hóa người châu Phi và con cháu của họ. Để duy trì sự nô dịch đó, các bang miền nam đã ly khai và xảy ra nội chiến. Sau một thời kỳ Tái thiết ngắn ngủi trong đó người da đen vẫn bị chiếm quyền, quyền lực tối cao của người da trắng đã tiếp tục giành lại quyền kiểm soát pháp lý trực tiếp ở miền Nam, và phát triển mạnh mẽ trên thực tế ở cả phần còn lại của đất nước.
Năm 1858, hai năm trước khi cuộc nội chiến bắt đầu, Abraham Lincoln đã phát biểu trước Nhà nước Cộng hòa Illinois, nhắc nhở những người có mặt rằng:
“Một ngôi nhà bị chia cắt tự nó không thể đứng vững. Tôi tin rằng chính phủ này không thể chịu đựng, vĩnh viễn việc một nửa đất nước nô lệ và một nửa tự do. Tôi không hy vọng Liên minh miền Nam bị giải thể, tôi không mong ngôi nhà sẽ sụp đổ, nhưng tôi hy vọng nó sẽ không còn bị chia cắt. Nó sẽ trở thành tất cả là một thứ, hoặc là tất cả những thứ khác”.
Hơn 160 năm sau, nước Mỹ rõ ràng không những vẫn còn chia rẽ mà còn trở nên chia rẽ hơn bao giờ hết. Nếu bạn nghi ngờ rằng Nội chiến vẫn đang diễn ra ngày nay, không phải tìm đâu xa mà ngay ở việc những lá cờ chiến đấu của Liên minh miền Nam được giương cao một cách tự hào bởi các thành viên của đám đông nổi dậy tràn qua Điện Capitol vào ngày 6 tháng 1 vừa qua.
Ồ, và những kẻ man rợ làm gì? Họ không chỉ ở cổng; họ đã xâm phạm nó theo đúng nghĩa đen, như chúng ta đã thấy ở Washington, khi họ phá cửa chính và cửa sổ của trung tâm chính phủ, tràn vào chiếm lĩnh toà nhà!
Có thể là hình ảnh về 1 người
XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TỪ ĐỐNG ĐỔ NÁT CỦA ĐẾ CHẾ
Từ lâu, loài người đã xây dựng những môi trường sống mới theo đúng nghĩa đen từ đống đổ nát – những viên đá và gỗ rơi xuống – của những công trình trước đó. Có lẽ đã đến lúc phải suy nghĩ xem nơi này – rất giàu tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực – có thể trở nên như thế nào nếu chúng ta lấy đá và gỗ của đế chế để xây dựng một quốc gia dành cho sự an ninh thực sự của tất cả mọi người dân. Giả sử chúng ta thực sự chọn, theo lời mở đầu của Hiến pháp, “thúc đẩy phúc lợi chung và bảo đảm các phước lành tự do cho bản thân và hậu thế của chúng ta”.
Giả sử chúng ta đã tìm ra một cách để chuyển đổi cơn đói khát tuyệt vọng, vốn vừa là nhiên liệu của các đế chế vừa là động cơ hủy diệt cuối cùng của họ, thành một sự hài lòng mới với quan niệm “đủ”? Một Hoa Kỳ mà người dân đông đủ trông sẽ như thế nào? Nó sẽ không phải là một số lượng nhỏ đáng kinh ngạc những người giàu có dễ dàng kiếm thêm hàng nghìn tỷ đô la và tổ hợp công nghiệp-quân sự của đất nước tiếp tục phát triển mạnh trong một đại dịch, trong khi rất nhiều người khác rơi vào thảm họa.
Đế chế này sớm muộn gì cũng sẽ sụp đổ. Tất cả đều đang dẫn tới điều đó. Vì vậy, cuộc khủng hoảng này, ngay khi bắt đầu những năm cầm quyền của Biden và Harris, là thời điểm thích hợp để bắt đầu suy nghĩ về những gì có thể được xây dựng ở vị trí của nó. Mọi người trong chúng ta muốn nhìn thấy gì qua cửa sổ phía trước căn hộ vào năm tới?
Tuấn Thanh

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *