Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác tin bài của nhanquyenvn.org, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "nhanquyenvn.org". Tìm kiếm ngay
21327

Ai mới là kẻ hoang tưởng?

 

Kênh Diễn đàn Chính luận ngày 17/4/2023 (được phát trên đài SBTN của Việt tân) khi xuyên tạc về chiến thắng 30/4 với tiêu đề “Những hoang tưởng về cuộc chiến nồi da xáo thịt” đã tung ra những luận điệu xuyên tạc về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh – người đã được nhân dân ta và nhân dân thế giới thừa nhận là “Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hoá kiệt xuất của Việt Nam”. Họ coi sự thừa nhận đó là “hoang tưởng”. Vậy điều mà họ coi là “hoang tưởng” có đúng không?

Họ cho rằng nói người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tên của Hồ Chí Minh thời trẻ) rời đất nước ngày 5/6/1911 để tìm đường cứu nước là “hoang tưởng”. Họ căn cứ vào bức thư ngày 15/9/1911 của Nguyễn Tất Thành gửi Tổng thống Pháp xin vào học Trường Thuộc địa để khẳng định rằng Nguyễn Tất Thành xin vào học với “mong muốn trở nên hữu ích cho nước Pháp”, từ đó suy luận rằng Nguyễn Tất Thành xin vào học để phục vụ chính quyền Pháp. Vào thời kỳ Nguyễn Tất Thành viết bức thư là thời kỳ thực dân Pháp tiếp tục đàn áp các phong trào yêu nước và các cuộc khởi nghĩa. Chính phủ Pháp thương lượng với Chính phủ Nhật để trục xuất Phan Bội Châu và những người tham gia phong trào Đông Du về nước. Chính quyền thực dân đã bắt bớ những người tham gia phong trào Duy Tân do Phan Chu Trinh lãnh đạo, đày Phan Chu Trinh ra Côn Đảo sau đó đưa Phan Chu Trinh về an trí ở Mỹ Tho đến năm 1911 mới cho Ông sang Pháp cư trú. Chúng tàn sát dã man những người tham gia các cuộc khởi nghĩa trong đó có các nghĩa quân của Phan Đình Phùng ở Hương Khê (Hà Tĩnh) và của Hoàng Hoa Thám ở Yên Thế (Bắc Giang). Trong hoàn cảnh như thế, liệu Nguyễn Tất Thành có thể viết một bức thư xin vào học Trường Thuộc địa trong đó nói rõ mục đích cứu nước của mình được không? Ngoài ra, nếu đọc kỹ chúng ta có thể thấy bức thư còn chứa đựng những ý tưởng khác như “rất khao khát học vấn” và mong muốn “làm thế nào cho họ (đồng bào mình) được hưởng những ích lợi của nền học vấn”. Như vậy bức thư của Nguyễn Tất Thành xin học Trường Thuộc địa đâu chỉ nói “mong muốn trở nên hữu ích cho nước Pháp”?

Họ cho rằng nói Hồ Chí Minh suốt đời vì dân vì nước là “hoang tưởng”.

Ngay khi ở tuổi thiếu niên, Nguyễn Tất Thành đã đau xót trước nỗi thống khổ của đồng bào và sớm nung nấu lòng mong muốn giải phóng đồng bào khỏi cảnh lầm than. Trước khi ra nước ngoài, Nguyễn Tất Thành nói với một người bạn: “Tôi muốn đi ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”. Chính với chí hướng đó, Nguyễn Tất Thành đã làm mọi công việc trên các con tầu qua Pháp và từ đó để qua các nước ở châu Phi, Nam Mỹ, Trung Mỹ, Mỹ, Anh….Ở những nơi đi qua, Nguyễn Tất Thành đều tận dụng mọi cơ hội để tìm hiểu cuộc sống của người lao động, không ngừng thu nhận kiến thức để sau này trở về giúp nước. Khi sống ở Pháp mặc dù phải làm các việc khác nhau nhưng Nguyễn Tất Thành đã tham gia nhiều hoạt động chính trị, đặc biệt là thay mặt Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường ký tên là Nguyễn Ái Quốc gửi “Yêu sách của nhân dân An Nam” đến Hội nghị Hoà bình ở Versailles (Pháp), ra báo Người cùng khổ (Le Paria), viết bài đăng trên một số tờ báo ở Pháp…nhằm tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở  Đông Dương và kêu gọi Chính phủ Pháp trả lại độc lập cho Việt Nam. Năm 1919 Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng Xã hội Pháp vì Đảng này là “tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực nước tôi”. Tháng 12/1920 tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp họp ở Tour (Pháp), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Đảng này gia nhập Quốc tế III vì Quốc tế III “sẽ giúp đỡ các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập của họ – đó là tất cả những điều tôi muốn”.  Trong quá trình hoạt động cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã nhiều lần bị kết án vắng mặt, bị bắt. Tháng 10/1929 Nguyễn Ái Quốc bị tuyên án tử hình vắng mặt tại Tòa đại hình Vinh và lần hai vào tháng 2/1930. Trong giai đoạn 1930 – 1931, Nguyễn Ái Quốc hoạt động chủ yếu tại Hồng Kông dưới tên gọi là Tống Văn Sơ. Ngày 6/6/1931 Nguyễn Ái Quốc bị cảnh sát Hồng Kông bắt giam khi đang trú tại Cửu Long và bị đưa ra xét xử từ ngày 14/8/1931 đến ngày 11/9/1931. Do sự can thiệp của tổ chức Cứu tế Đỏ và sự bào chữa của Luật sư Francis Henry Loseby nên Nguyễn Ái Quốc chỉ bị tòa tuyên bố trục xuất khỏi Hồng Kông. Với mong muốn gặp lại ân nhân của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời gia đình luật sư Loseby thăm Việt Nam từ ngày 26/1 đến ngày 3/2/1960, đúng dịp Tết Canh Tý năm 1960. Trong thời gian này, Hồ Chí Minh đã đón và tiễn gia đình Luật sư tại sân bay Gia Lâm, đưa gia đình Luật sư đi thăm các danh lam thắng cảnh ở Hà Nội. Trong lần đưa gia đình Luật sư đến thăm Nhà máy cơ khí Hà Nội, Hồ Chí Minh giới thiệu: “Đây là luật sư Loseby – người đã cứu sống Bác”. Trong thư cảm ơn gửi Hồ Chí Minh ngày 19/2/1960 viết từ Hồng Kông, luật sư Loseby bày tỏ tình cảm đặc biệt với Bác Hồ và nhân dân Việt Nam, trong đó có đoạn: “Ngài nói rằng tôi đã “cứu sống Ngài”, điều đó có thể đúng. Nếu vậy thì đó chính là việc làm tốt nhất mà tôi đã từng làm, và đó mãi mãi là một việc làm sáng suốt”. Cô Patơritxia – con gái của ông bà Loseby-trước khi chia tay nói: “Chắc chắn đất nước Việt Nam sẽ phồn vinh vì có một lãnh tụ vĩ đại như Bác Hồ”.

Giữa tháng 8 năm 1942, Hồ Chí Minh từ Pắc Bó sang Trùng Khánh, Trung Quốc để kêu gọi sự ủng hộ của các nước Khối Đồng minh đối với Mặt trận Việt Minh trong công cuộc đánh đuổi Pháp và Nhật. Ngày 27 tháng 8, trên đường từ huyện Tĩnh Tây tới huyện lỵ Bình Mã để đi Trùng Khánh, Hồ Chí Minh bị chính quyền địa phương bắt ở thị trấn Túc Vinh, huyện Thiên Bảo vì bị tình nghi là gián điệp. Từ đây, Hồ Chí Minh bị giải đi khắp 13 huyện với 18 nhà lao. Trong thời gian bị tù đầy ở đây, Hồ Chí Minh đã sáng tác tập thơ “Nhật ký trong tù” gồm 133 bài thơ không chỉ phản ánh những nỗi thống khổ của cảnh lao tù mà còn nói lên tinh thần của một nhà cách mạng. Đó là tinh thần “Thân thể ở trong lao/ Tinh thần ở ngoài lao”. Đó là tinh thần “Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt/Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh”. Bất chấp giam cầm tù đầy, Hồ Chí Minh vẫn không bao giờ xa rời mục đích của mình. Trong buổi nói chuyện với đồng bào ngày 30/5/1946 trước khi sang Pháp, Hồ Chí Minh nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo – là vì mục đích đó”.

Sau này khi trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (tiền thân của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay), Hồ Chí Minh vẫn luôn luôn coi mình là “người lính vâng lệnh quốc dân ra trước mặt trận”. Khi trả lời các nhà báo nước ngoài (đăng trên báo Cứu Quốc ngày 21/1/1946), Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu đến vòng danh lợi “. Trong Di chúc của mình, Người viết: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”.

Cuộc đời và hoạt động của Hồ Chí Minh không chỉ là tấm gương chói lọi cho mọi người Việt Nam yêu nước mà còn là minh chứng bác bỏ mọi sự xuyên tạc về Người. Ấy vậy mà vẫn có những kẻ bất chấp sự thật, coi sự tôn vinh cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh là “hoang tưởng”. Phải chăng cái mà họ cho là “hoang tưởng” không có gì khác chính là sự hoang tưởng của kẻ hoang tưởng./.

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *